Thứ Hai, 31 tháng 8, 2009

Công Chúa Thuần Nhẫn



Công chúa Thuần Nhẫn là con gái út của vua Ba Tư Nặc. Công chúa là người hiếu hạnh, lại có đức nhẫn nhục, nhưng phải có tội xấu quá, nên đã 18 xuân mà vua cha chưa tính việc xuất giá được.

Ôi! Bà mụ cay nghiệt làm sao?

Bắt nặn thế nào cho công chúa xấu đến nổi ai thấy cũng bực mình, mũi tẹt, trán dồ, miệng hô, mắt toét, đó là chưa kể đến thân hình nếu nói đến thân hình thì nàng chỉ cao vỏn vẹn một thước lênh khênh. Vì vậy mà trong triều các vương tôn, công tử phải tìm kế du học ráo, để tránh cái nạn bị trạch phò mã.

Mỗi khi công chúa thấy hai chị hãnh diện trước nhan sắc xinh tươi, nàng rất ngậm ngùi tủi hận, song cũng không hề ganh tỵ. Trái lại, hai chị thì kêu căng, mỗi khi thấy nàng thường tỏ vẻ khó, không muốn gần gũi chuyện trò. Lại tâu với vua cha cấm không cho nàng đi ra ngoài sợ thế gian chê cười. Công chúa thui thủi một mình trong cung cấm.

Nàng hiếu hạnh với cha mẹ, chiều chuộng hai chị và hết lòng thương yêu những người hầu hạ. Nàng thường đem tiền bố thí cho người nghèo khổ, cung cấp thuốc men cho người bệnh hoạn, vì thế ai cũng yêu mến công chúa hơn hai bà chị.

Nhan sắc kỳ dị của công chúa Thuần Nhẫn bay ra, cũng như đức hạnh của nàng, nên một ngày kia Hoàng tử một nước lân cận đến xin cưới nàng làm vợ.

Cầm tay người nghĩa hiệp, vua Ba Tư Nặc cảm động, bảo Trọng Ðức rằng: "Con trẫm được Hoàng tử thương mến thật trẫm không biết lấy lời gì tả cho hết được nỗi lòng cảm bội". Khi về nước, Hoàng tử không cho tiếp xúc với người, sợ thiên hạ thấy bên ngoài chê cười chăng?

Nhưng than ôi! Lòng hào kiệt của vị Hoàng tử thanh niên cá hạn, mà nhan sắc công chúa lại xấu vô cùng, nên mặc dầu vẫn mến đức, trọng tài của vợ, mà lắm khi Thái tử cũng bực mình về cái xấu của người vợ đáng thương. Rồi lần lần Trọng Ðức tìm cớ săn bắn vui chơi riêng. Công chúa như con chim trong lòng son, tuy có gạo trắng nước trong, nhưng ngoài bốn bức tường thì nàng không còn hay biết gì cả. Công chúa biết nghiệp duyên nên thầm trách kiếp xưa bởi vụng đường tu nên kiếp này phải mang lấy quả xấu, không bao giờ oán thán ai. Nàng chỉ một lòng nhu thuận với chồng, khoan dung độ lượng với người trong cung.

Nhưng ác thay! Các bà Vương phi quận chúa thường tìm đến với nàng để khoe khoang hãnh diện, có khi còn dám chế nhạo nàng ra mặt. Ðức nhẫn nhục của công chúa thuần thành, nên nàng luôn luôn vui vẻ xem như không có gì đáng để ý.

Một hôm các bà về xúi chồng bày một bữa tiệc, mời khắp cả Vương tôn danh nhân trong nước. Theo lệ thường thì vợ nào chồng nấy đếu đến đủ mặt... Duy chỉ có Hoàng tử Trọng Ðức lủi thủi đến một mình. lủi thủi đến một mình. Thôi thì các bà Vương phi, quận chúa, tiểu thơ khoe khoang duyên dáng, các bà lại đi tìm Hoàng tử Trọng Ðức chế giễu.

Hoàng tử không chịu nỗi cơn tức giận, nên sanh lòng ghét vợ. Chàng hằm hằm chuyến này thì về nhất quyết ly dị cho rảnh.

Chồng đi yến tiệc, công chúa một mình vò võ trong cung. Tự nhiên nàng thấy nao nao trong lòng, tin chắc có điều gì không hay xảy đến cho mình. Nàng tủi thân rơi nước mắt. Tự nghĩ ta đời trước đã tạo nhân gì ác nghiệp đến nỗi sanh thân kỳ dị, làm khổ tâm biết bao nhiêu người vì thương yêu ta. Nàng liền chắp tay thành kính hướng về giữa thanh không thầm niệm. "Nam mô Phật, nam mô chư Phật". và tự khấn nguyện: Ðức Phật hiện nay Ngài hay ban bố ích lợi cho chúng sanh, cứu khổ cho tất cả người khổ sở. Nay con là một người đang chịu khổ, lại không làm sao ra khỏi cung cấm để hầu Ngài. Nguyện xin oai thần Ðức Thế Tôn từ bi khuất giá giáng thần vào trong chốn u đày này, cho con được đảnh lễ. Nỗi thống khổ lòng thành kính tha thiết của con người đáng thương ấy, ứng hiệp với Ðức từ bi của Phật. Ðược Ðức Phật ở tịnh xá Kỳ Viên liền vận thần thông hiện ra trước mặt, trong khi công chúa đang quì lạy. Ngưỡng lên thấy Phật, vừa mừng vừa tủi, nàng kính bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Ðời trước con đã gây nghiệp ác gì, mà ngày nay bị quả báo thân hình xấu xí như thế này? Lại nhờ phước đức gì mà sanh vào chốn giàu sang?" Ngài động lòng thương xót dịu dàng bảo: "Ðời trước con là một người đàn bà có nhan sắc, lại hay cúng dường bố thí, nhưng khắc nghiệt với tôi tớ, kiêu căng với bạn bè và hay ganh tỵ với người có nhan sắc hơn mình, mắt thường hay nguýt, miệng hay nói xấu người, khi sân hận nổi lên thì đánh đập tôi tớ một cách tàn nhẫn. Nhất là hay ỷ mình có nhan sắc của cải khinh ngạo kẻ khác. Ngày nay con phải thành tâm tha thiết cần cầu sám hối đi, thì những tội lỗi trước kia sẽ tùy theo tâm niệm mà tiêu diệt".

Tiếng Phật dịu dàng như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, công chúa thấy tự nhiên lòng nhẹ lâng lâng, nàng rút khăn lau ráo lệ, rồi tha thiết cần cầu sám hối. Nàng quỳ xuống chân Phật hàng giờ với những lời chân thật phát sinh ra tự đáy lòng. Ðức Phật để cánh tay vàng lên đầu nàng, công chúa ngẩng lên thấy đôi mắt hiền từ trong sáng của Ðức Phật nàng rất sung sướng. Liền khi ấy mắt nàng cũng trong sáng như mắt chim thu nàng thấy sắc diện của Phật đoan nghiêm hiền hậu, lòng nàng cảm động, sanh bao sự vui mừng, tự nhiên mặt nàng cũng đoan nghiêm mỹ lệ. Nàng thấy chân Phật sáng ngời, cốt cách siêu phàm, lòng nàng lại bội phần mến phục, tự nhiên thân nàng cũng đoan nghiêm điều đặn, các tướng xấu xa của nàng bị tiêu diệt. Nàng liền trở nên một công chúa đẹp đẽ xinh tươi đầy đủ phước tướng.

Phật thuyết pháp cho nàng nghe xong liền vận thần thông trở về Tịnh Xá.

Giữa bữa tiệc vui, Hoàng tử Trọng Ðức không chịu được lời chế giễu của các bạn. Tình yêu không thể kéo lại cái hổ, cái nhục. Thái tử bực tức lên ngựa trở về cung, vừa đi vừa thầm nghĩ: "Chuyến này nhất định để, nhất định ly dị".

Tiếng gió ngựa của người hào kiệt sao mà gấp gáp thế? Công chúa lo ngại vội vàng bước xuống thang lầu thấy mặt chồng đầy sát khí, nàng không dám hỏi han gì. Theo lệ thường nàng cúi xuống tháo chiếc đai ngọc trên lưng Thái tử và cất chiếc mũ vàng cho đầu chàng đỡ nặng. Thái tử ngạc nhiên, cử chỉ ấy rõ ràng là vợ, mà sao nhan sắc nàng biến đổi thế kia? Công chúa hiểu ý, liền đem chuyện cầu Phật kể lại cho chồng nghe. Từ đó vợ chồng vui vẻ hòa thuận cùng nhau lo tu phước thiện.

Một hôm vui câu chuyện, công chúa bảo chồng: "Thiếp xem chàng trọng sắc hơn trọng đức". Hoàng tử cả thẹn nói lảng qua chuyện khác.

Ðọc câu chuyện này chúng ta nhận thấy nhẫn nhục là điểm cốt yếu cần phải có trong tất cả hạng người, cần phải dùng trong tất cả hoàn cảnh. Nhờ sự nhẫn nhục, nhờ lòng thiết tha ăn năn của công chúa Thuần Nhẫn đã đổi được cuộc đời tối tăm trở thành tươi sáng. Chúng ta nê
n biết nếu tâm đức thanh tịnh thì sẽ chuyển được hình tướng bên ngoài. Vậy ta nên nhớ "NHẪN NHỤC LÀ GỐC HẠNH LÀNH, SÂN SI LÀ NGUỒI TỘI LỖI".


Hết
501

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2009

Nguyên nhân



Bố kiểm tra vở của Tèo thì thấy rất nhiều điểm kém, bố hỏi:

- Sao con nhiều điểm kém vậy?

Tèo trả lời:

- Tại vì thằng ngồi gần con nó dốt quá...
- - - - - - -  - - - - - - --  -- - - - - - - - - - - - - -


Trên đường đi học về, thấy Hoàng yên lặng khác thường, Dũng ngạc nhiên:

- Sao bồ có vẻ thất thần vậy?

- Hôm nay tớ có kiểm tra, nhưng tớ phải nộp giấy trắng!

- Chắc là không học bài nên phải nộp giấy trắng chớ gì.

- Không đâu, hôm kia tớ mơ là nghe thầy nói ai cóp-pi sẽ bị zerô, còn ai bắt quả tang bạn mình quay cóp sẽ được thưởng điểm 10. Cho nên hôm qua tớ không thèm học bài, để hôm nay ngồi canh xem có ai quay không cho khỏe, nào ngờ...

1078

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2009

Con đã tính rồi



Có một anh học trò rất hà tiện, một hôm nhà thầy có giỗ, anh ta ra chợ mua mấy cái bánh đa về, đưa sang nhà thầy gọi là lễ cúng. Khi đi, anh ta mang theo một con gà sống. Thầy nói:


- Con bầy vẽ làm gì cho tốn kém!


Trò trả lời:


- Có bày vẽ gì đâu! Chỉ có mấy cái bánh đa thôi ạ! Con đã tính rồi. Ăn bánh đa thế nào cũng rơi vãi. Con mang gà theo là để nó nhặt những mảnh rơi vãi, xong con sẽ mang về!

2555

Quá tuổi



Thầy giáo đang giải thích cho học sinh hiểu thời gian đã làm thay đổi các quan niệm của xã hội về cái đẹp và các chuẩn mực của nó như thế nào:
- Chúng ta hãy thử nhớ lại Hoa hậu Mỹ năm 1931, cô ta cao 1,55 m cân nặng 49 kg, các số đo: 76-64-81. Theo các em, liệu cô ta có cơ may không, nếu dự cuộc thi sắc đẹp vào năm 2001 này?
- Thưa thầy, cô ta sẽ không có một cơ may nào hết ạ!
- Tại sao? Em hãy cho ví dụ về các tiêu chuẩn
- giáo viên gợi mở.
- Đơn giản vì cô ta đã quá tuổi đăng ký tham dự.

2431

Công Chúa Ngủ



Công chúa Ngủ đang ngon giấc trên một chiếc giường đầy hoa có nắp đậy bằng pha lê.
Nàng xinh đẹp, phúc hậu và thông minh, tuy vậy cái sắc đẹp, cái phúc hậu và cái thông minh đang ngủ cùng nàng. Nàng đã tồn tại, song nàng ngủ li bì, cho nên coi như không có nàng. Chỉ có sắc đẹp của nàng hiện lên qua nắp pha lê trong suốt, nhưng đó không phải là nét ưu của tính cách của nàng. Từ thuở nảo thuở nào nàng chìm trong giấc ngủ, những người tí hon tốt bụng đứng thành vòng tròn vây quanh nàng, chặn lối vào của lũ cướp và thú dữ. Họ biết rằng, chỉ có Hoàng tử Lãng du mới được quyền đến bên nàng. Có điều không biết chắc chắn Hoàng tử có đến hay không. Nhưng rồi họ mừng rỡ khi vào một sáng tháng năm những người tí hon trung thành nhìn thấy Hoàng tử đang du ngoạn đúng vùng này. "Chỗ này? Chỗ này?" - họ gọi to và lao vào mở nắp pha lê.
Hoàng tử tiến lại gần. Chàng ngắm nhìn và - Ôi, nàng Công chúa ngủ này mới đẹp làm sao. Do phản xạ mạnh, chàng khom người và hôn lên đôi môi hồng nhạt của nàng. Đúng như dự tính.
Công chúa mở mắt, nàng tỉnh dậy và nhìn thấy Hoàng tử đang cúi xuống sát mặt mình. Nàng ôm chẩm lấy cổ chàng, còn những người tí hon vây quanh nhảy múa hân hoan. Họ cũng rất mừng là từ nay không còn phải túc trực bên công chúa nữa và bây giờ thì họ có thể đi lo việc riêng của mình.
Khi những người tí hon nhảy đi xa dần, Hoàng tử vẫn ôm Công chúa, còn Công chúa vẫn ôm Hoàng tử. Tới khi lưng chàng mỏi dừ, Hoàng tử đành ngồi ghé vào thành giường pha lê, nhưng người vẫn cúi khom xuống mặt Công chúa, còn Công chúa vẫn tiếp tục ôm ghì lấy chàng - Hoàng tử không thể thay đổi hẳn tư thếlúc này của mình được. Vì vậy sau một hồi lâu chàng hỏi nàng:
- Bây giờ sẽ là cái gì đây?
- Bây giờ thì ta cứ giữ nguyên như thế này mãi mãi - Công chúa đáp
- Mãi mãi? - Hoàng tử ngạc nhiên.
- Tất nhiên. Chẳng phải vì thế mà chàng đã đánh thức em dậy và hôn vào đôi môi hồng nhạt của em đấy ư?
- Thế nhưng, nàng Công chúa của anh ơi, làm vậy mãi liệu chúng ta có phát chán hay không?
- Em chẳng hiểu chàng nói gì. Đó chính là hạnh phúc chứ còn gì. Hoàng tử lúng túng và không tranh luận tiếp nữa, bởi chàng không nỡ làm vậy. Mãi một hồi lâu chàng mới lại nói, nhưng lần này Hoàng tử cố gắng trình bày cái nhìn chủ quan của mình có vẻ như là khách quan.
- Nàng thấy không, hỡi Công chúa quý mến của anh, về mặt chủ quan thì anh hoàn toàn nhất trí với nàng, nhưng về mặt khách quan thì sự việc được diễn giải như thế này: anh là Hoàng tử lãng du đã được chương trình hóa, có nghĩa là anh sinh ra là để lãng du khắp thế gian dặng tìm các Công chúa ngủ. Hễ tìm thấy được một Công chúa ngủ nào đó thì anh tiến lại bên nàng, hôn lên đôi môi hồng nhạt của nàng. Lúc đó nàng tỉnh dậy, nhưng sau đó thì nàng không còn là việc của anh nữa. Và thế là anh lại tiếp tục lên đường.
- Các Công chúa ngủ nào cơ...? Em đây chính là Công chúa ngủ chứ còn ai.
- Đúng thế! Dĩ nhiên. Có nghĩa là, nàng là Công chúa thì quá rõ rồi, nhưng không còn là ngủ nữa. Nàng không còn ngủ nữa, trong khi đó những nàng Công chúa tội nghiệp khác vẫn tiếp tục ngủ li bì và dơi ngày được đánh thức.
- Những nàng Công chúa khác là những nàng nào? - Công chúa vặn lại với giọng điệu khiến Hoàng tử không dám mở rộng dề tài nữa.
- À ở đâu đó í mà. Thôi, không nói chuyện này nữa.
Công chúa dừng lại ở câu trả lời chưa đầy đủ, bởi như người ta nói nàng thông minh. Cho nên chỉ còn cách, bây giờ đến lượt Công chúa, cố gắng trình bày với Hoàng tử cái nhìn chủ quan của mình có vẻ như là khách quan:
- Chàng nói phải, em là Công chúa, thế nhưng không còn là ngủ nữa. Có điều chính chàng đã đánh thức em dậy và bây giờ thì em không ngủ nữa. Vậy nếu bây giờ chàng ra đi và em sẽ không ôm chàng trong cánh tay em nữa thì em sẽ là ai bây giờ và biết làm gì bây giờ? Công chúa nói đầy sức thuyết phục.
- Quả đúng, đó là vấn đề và mỗi lúc anh càng cảm nhận, câu chuyện thần thoại này được viết theo lối dình mệnh. Tác giả chương trình hóa chúng ta theo cách, mọi chuyện chỉ ăn khớp với nhau đến một thời điểm nào đó, rồi sau đó bắt đầu sinh mâu thuẫn. Thôi thì bây giờ chúng ta hẵng cứ duy trì tư thế này, biết dâu tác giả sẽ suy ngẫm, xóa bớt đi cái gì đó, thêm vào cái gì đó, thay đổi cái gì dó... Và có thể chuyện sẽ được sáng tỏ.
Hoàng từ nói như vậy, dẫu rằng mỗi lúc lưng càng thêm mỏi, song chàng thấu hiểu tình cảnh của nàng Công chúa và có tình cảm chân thành với nàng. Thế là họ cứ giữ nguyên xi tư thế đang có lúc này, có điều, ngay Công chúa cũng chẳng thấy hạnh phúc, bởi nàng chưa chắc chắn hếu họ có giữ y nguyên như vậy mãi suốt đời hay không, còn Hoàng tử cũng vậy, vì chàng chưa dám tin, đây là chỉ tạm thời. Mãi một thời gian sau hoàng tử mới nói thế này:
- Anh thèm hút thuốc quá, nhưng hết nhẵn diêm rồi. Nàng có cho phép anh chạy đi lấy diêm?
- Nhưng mà chàng có quay lại không? - Công chúa hỏi vậy, vì nàng thông minh.
- Dĩ nhiên, anh sẽ quay lại. Anh chỉ đi kiếm diêm và rồi quay lại ngay. Anh thèm thuốc quá chừng.
Công chúa đăm chiêu. Một đằng sự thông minh bảo nàng phải hoài nghi, một đằng lòng tất - nàng đã từng tốt bụng, thiên hạ nói vậy - bảo rằng, nàng xót khi nhìn thấy Hoàng từ khổ sở do bị đói in-cô-tin. Sao lại nỡ làm khổ người yêu ở chốn này. Cho nên nàng buồn rầu nói, vì sự thông minh và lòng tốt không thuận với nhau:
- Chàng đi đi.
Hoàng từ bước đi. Đúng là chàng thèm thuốc và đúng là chàng cần diêm - cho nên, về phương diện này thì chàng nói thật. Thế còn thứ khác... Chàng hy vọng với sự trợ giúp của cái sự thực một phần này chàng sẽ lấn át được sự ăn năn về chuyện toàn bộ. Bởi toàn bộ phần còn lại là giả dối. Cho nên Hoàng tử đã hy vọng, bằng cái sự thật một phần chàng sẽ chuộc lại được trong lương tâm mình cái giả dối hoàn toàn. Hy vọng sẽ bị tiêu tan, đó là cái chắc.
Khi hy vọng bị tiêu tan, thì chàng tin ngay. Bởi do bị trừng phạt chàng đã biến thành một con cóc, một con cóc đáng khinh. Và chàng có hình dạng của một con cóc cho tới khi - theo một chuyện thần thoại khác - gặp được một nàng Công chúa có lòng nhân hậu đến mức, không cần để ý đến tên đê tiện khả ố, nàng đưa đôi môi hồng nhạt của mình hôn lên cái mõm sần sùi của hắn. Lúc đó thì hắn mới hiện trở lại là một Hoàng tử
1668

Aii cha! có lúc nhằm



Viên cảnh sát nhìn ông nha sĩ cầm kìm và chiếc răng hàm của mình, nổi cáu quát:


- Này ông, ông có điên không đấy! Tại sao lại nhổ nhầm vào chiếc răng hàm của tôi?


- Tay nha sĩ tỉnh bơ và nói:


- Thế ông không tóm nhầm ai bao giờ chắc?


***


Một người đàn ông đến gặp bác sĩ tâm lý:


- Thưa bác sĩ, vợ tôi cứ khẳng định bà ấy là một con gà mái!


- Bà nhà bị lâu chưa?


- Cũng gần 1 năm rưỡi nay rồi.


- Thế tại sao bây giờ ông mới đến đây?


- Dạ, tôi còn chờ xem cô ấy có đẻ trứng không.

448

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2009

Bài Thơ Chưa Hoàn Thành



Đêm nhớ em, em có tin không?
Em như chiếc gối rúc trong lòng
Nào ai biết trăm con chim mộng
Vây kín đầu giường anh hát rong


Ngày nhớ em, em đã tin chưa?
Em như sen đẹp tự nghìn xưa
Vái trời ao mọc ngay bên cạnh
Em nở thành thơ suốt bốn mùa


Mốt nhớ em, biết nhớ hay không?
Mới ngày, đêm đã đủ tê lòng
Thôi nghe đừng nhớ, thôi đừng nhớ
Lỡ mai này con sáo sang sông...

2931

Bệnh di truyền



Bác sĩ: Tôi đành bó tay với căn bệnh của ông vì đây là một chứng bệnh di truyền.

Bệnh nhân: Vậy xin bác sĩ gởi hóa đơn thanh toán cho bố tôi ạ!

Bác sĩ: Bố cậu hiện đang ở đâu?

Bệnh nhân: Đang ngậm cười chín suối.



o O o


Có một tay bác sĩ ngoại khoa rất nổi tiếng, ông ta có khả năng kỳ diệu là có thể phẫu thuật thay thế những bộ phận của con người.

Một hôm có một khách hàng đến đòi phẫu thuật đôi mắt mù lòa của mình, ông ta bèn lấy mắt chó để thay thế cho anh ta. Cuộc phẫu thuật khá thành công. Khi bệnh nhân đến khám lại thì ông ta nhận được những lời như sau:

"Dạ thưa bác sĩ đôi mắt của tôi thật là tuyệt vời, có thể nhìn trong bóng đêm như ban ngày nhưng chỉ mỗi tội mỗi khi nhìn thấy phân thì lại thèm".1927

Kiểm tra kỹ rồi ạ



Một đôi nam nữ tới ủy ban xã làm thủ tục đăng ký kết hôn. Thấy chàng trai ra ngoài, ông chủ tịch xã liền hỏi cô gái:
- Trước khi đi đến hôn nhân, anh chị đã kiểm tra kỹ chưa?
- Rồi ạ! Anh ấy có một ngôi nhà 3 phòng, trong tài khoản cũng có kha khá...
- Ý tôi hỏi là cô đã đi khám sức khỏe chưa?
- Dạ, có chứ ạ, họ nói cái thai là con trai !!!
1801

Con hết khát rồi



Bố đang hứng thú dạy con trai tập bơi, thì cậu quý tử đề nghị:
- Bố ơi, chúng ta có thể nghỉ được chưa ạ?
- Sao vậy? Lúc nãy, chính con hăng hái đòi bố cho tập cơ mà?
- Vâng, nhưng bây giờ con căng bụng rồi, không còn khát nữa ạ.
1729

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2009

Hạnh Phúc, Khổ Đau và Niết Bàn



     Mục đích của Thiền Phật Giáo là Niết Bàn. Chúng ta hướng đến Niết Bàn và tránh xa những rắc rối của thế giới dục lạc - vòng tròn không dứt của những thói quen. Niết Bàn là mục đích mà ta có thể đạt được ngay hiện đời. Chúng ta không cần đợi lúc lià đời mới biết Niết Bàn hiện hữu.

      Các giác quan và thế giới dục lạc là cõi của Sanh, Già, Bệnh, Chết. Cái thấy là một thí dụ, nó dựa vào rất nhiều nguyên nhân: cho dù là ngày hay đêm, cho dù mắt tốt hay không tốt. Chúng ta hay bám víu vào màu sắc, hình dáng mà ta cảm nhận được bằng mắt và bắt đầu đồng hóa với chúng.

      Kế đến là lỗ tai và cái nghe. Khi chúng ta nghe những âm thanh chói tai thì chúng ta chán ghét. Cái ngửi thì cũng vậy. Chúng ta tìm kiếm những mùi thơm tho, và không ưa những mùi hôi thối.

      Với cái nếm cũng thế, chúng ta kiếm những vị thơm ngon và tránh những vị dở. Kế nữa là sự xúc chạm - có bao lần trong đời, chúng ta trốn chạy những xúc chạm khó chịu, đau đớn và tìm kiếm những xúc chạm dễ chịu. Cuối cùng là sự suy nghĩ, sự phân biệt . Cái suy nghĩ và phân biệt nầy đem lại cho chúng ta bao niềm vui cũng như nỗi khổ. Bời vì đây là những cảm giác, cảm xúc.

      Chúng ta đang ở trong thế giới dục lạc - Thế giới của Sanh Tử. Do đó đau khổ, bất toàn, và bất như ý là những điều hiển nhiên. Bạn không bao giờ tìm được hạnh phúc hoàn toàn, không bao giờ hài lòng và an bình trong thế giới dục lạc. Nơi đây chỉ có thất vọng và sự chết. Thế giới dục lạc là bất như ý, do đó khi chúng ta tìm "sung sướng" nơi đây - chúng ta chỉ được kết quả đau khổ mà thôi. Chúng ta sẽ đau khổ nơi thế giới nầy khi mà chúng ta đòi hỏi nơi đây nhiều hơn là nó có thể mang lại cho chúng ta. Chẳng hạn như đòi sự an toàn tuyệt đối, tình yêu vĩnh viễn, và mong đời sống của chúng ta chỉ toàn niềm vui và không có đau buồn.

      "Nếu chúng ta có thể đoạn diệt được bệnh hoạn và tuổi gìa." Tôi còn nhớ hai mươi năm trước ở Mỹ Quốc, người ta hy vọng vào khoa học tiên tiến để loại trừ hết bệnh tật. Họ nói : "Tất cả bệnh về tâm thần là do hóa chất trong cơ thể không được cân bằng. Nếu chúng ta có thể tìm ra công thức của những hợp chất và chích những hóa chất mà ta thiếu vào trong cơ thể thì bệnh tâm thần như "phân tán tâm thần" (schizophrenia) sẽ được chữa lành. Sẽ không còn bệnh đau lưng hay đau đầu nữa. Chúng ta có thể thay thế tất cả bộ phận bên trong bằng những bộ phận tốt hơn làm bằng plastic.

      Tôi còn đọc một bài báo của Úc Châu nói là họ sẽ làm thế nào để chiến thắng tuổi già! Như hiện giờ dân số của thế giới cứ tiếp tục gia tăng, chúng ta cứ tiếp tục sanh con và nếu không ai già và không ai chết... Thử xem thế giới sẽ hỗn loạn đến mức nào. Thế giới sắc dục là bất như ý và điều nầy là hiển nhiên. Khi mà chúng ta bám víu vào thế giới nầy, thì chúng ta chỉ có thất vọng, vì bám víu nghĩa là muốn được như ý, chúng ta muốn thế giới nầy làm vừa lòng chúng ta, làm cho chúng ta sung sướng và hạnh phúc, an toàn. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại bản chất của hạnh phúc?

      Chúng ta có thể hạnh phúc trong bao lâu ?

      Hạnh phúc là gì ? Bạn có thể nghĩ là khi mà bạn có được những gì bạn mong muốn, đó là hạnh phúc. Người nào đó nói điều gì, hay làm điều gì mà bạn hài lòng và bạn cảm thấy vui, cảm thấy hạnh phúc. Người nào làm đồ ăn ngon đãi bạn, bạn vui. Bạn vui khi trời đẹp, có nắng ấm. Nhưng bạn có thể vui trong bao lâu ? Ở Anh Quốc, thời tiết thay đổi liền liền, sự sung sướng, vui thích lúc nắng ấm bên Anh là một việc không hoàn toàn được như ý vả lại chúng ta đâu phải lúc nào cũng vui khi được thời tiết đẹp. Tóm lại, đau khổ là khi không được cái mà ta mong muốn. Muốn trời đẹp, mà trời mưa. Người ta làm những việc mà mình không vừa ý, đồ ăn không ngon v...v... Đời sống nhàm chán, độc điệu khi mà ta không vừa ý với đời sống ta đang có. Do đó hạnh phúc và khổ đau dựa trên những gì ta muốn và được, hoặc không muốn mà phải chịu "có ".

      Nhưng hạnh phúc là mục đích của mọi người trong cuộc sống nầy. Trong luật nhân quyền của Mỹ, có nói đến "tự do tìm hạnh phúc" . Làm cho được những gì mình mong muốn, và đây là mục đích của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Nhưng hạnh phúc lúc nào cũng đưa đến đau khổ vì nó là "Vô Thường". Bạn có thể hạnh phúc được trong bao lâu ? Ráng thu xếp, điều khiển, làm mọi cách để có những gì ta muốn, luôn nghe được những điều ta muốn nghe, thấy những gì ta muốn thấy, để cho ta không phải nếm đau khổ hay thất vọng. Nhưng đây chỉ là một việc làm vô ích. Một điều không thể thực hiện đưọc, phải không ? Vì thế đây không phải là một điều mà ta có thể dựa vào hay lấy đó làm mục đích cho đời sống.

      Hạnh phúc luôn luôn là thất vọng vì nó hiện hữu một cách ngắn ngủi và tiếp theo là đau khổ. Hạnh phúc lúc nào cũng tùy thuộc vào những nguyên nhân khác. Chúng ta hạnh phúc khi chúng ta mạnh khỏe, nhưng cơ thể con người luôn bị đổi thay ; chúng ta có thể mất sức khỏe một cách nhanh chóng. Lúc ấy chúng ta thiệt là khổ vì bệnh hoạn làm mất đi cảm giác mạnh mẻ, đầy sức sống. Do vậy, mục đích của người Phật tử không phải là tìm hạnh phúc vì biết nó không thật.

      Mục đích thật , nằm ngoài thế giới dục lạc. Không có nghĩa là chối bỏ thế giới nầy, nhưng mà là hiểu được nó một cách cặn kẻ để mà thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn. Chúng ta không còn chờ đợi "nó" mang hạnh phúc lại cho chúng ta nữa. Chúng ta không còn đòi hỏi quá đáng và bắt đầu ý thức về bản chất thật của thế giới mình đang sống. Chấp nhận bản chất thật của nó trong mọi trường hợp và hoàn cảnh. Ta không còn bám víu vào những cảm xúc nhất thời lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ.

      Niết Bàn không phải là trạng thái 'trống vắng' mà là một trạng thái 'tỉnh thức' - khi mà ta không còn bị lôi cuốn theo những pháp trần. Bạn sẽ không còn đòi hỏi thứ gì nơi cõi dục lạc nầy. Bạn chỉ nhận biết tất cả là những hiện tượng của "có" và "không."

      Trong hiện tại được thân người, chúng ta không thể tránh khỏi già, bệnh, chết. Một lần, có một người
phụ nữ trẻ, ẳm con đến Thiền Viện ở Anh Quốc. Đứa bé bệnh đã hơn một tuần và bị ho rất nhiều. Người mẹ nhìn con với vẻ thất vọng và khổ sở. Bà ngồi ôm con, đứa bé bắt đầu ho và la khóc đỏ cả mặt mày. Bà mẹ nói : " Ôi! Thầy Sumedho, tại sao con tôi phải khổ như thế? Nó chưa từng hại ai, chưa làm gì sai trái. Tại sao ? Chẳng lẻ kiếp trước nó đã làm gì nên tội, nên bây giờ phải chịu khổ như thế ?"

     Thật ra đứa bé khổ vì nó đã ra đời ! Nếu nó không ra đời thì đâu phải chịu khổ. Khi mà chúng ta được sanh ra tức là chúng ta sẽ phải gánh chịu bệnh hoạn, đau đớn, già và chết. Đây là một điều quan trọng cần suy ngẫm. Chúng ta có thể đoán chừng là kiếp trước, đứa bé nầy có lẻ đã bóp cổ mèo, chó gì đó, và bây giờ phải chịu trả nghiệp mà nó đã gieo. Nghĩ và đoán chừng như thế nầy cũng chẳng lợi ích gì. Ta chỉ cần biết là khi được sanh ra là do Nghiệp.

      Mỗi người trong chúng ta đều phải chịu bệnh, đau, đói, khát, già, và cuối cùng là chết. Đây là định luật của Nghiệp báo! Cái gì có bắt đầu thì phải có kết thúc, có sanh thì có tử, có sum hợp thì có chia ly. Chúng ta không phải chán đời vì những điều nêu trên, nhưng chúng ta nên chiêm nghiệm để mà đừng đòi hỏi nhiều nơi cuộc sống ở đây. Nhờ vậy ta mới có thể đương đầu với cuộc sống, chịu đựng khi gặp trở ngại , hài lòng khi mọi việc êm xuôi. Nếu hiểu được như thế, chúng ta có thể sống vui và không trở thành "nạn nhân" của cuộc sống. Bao nhiêu đau khổ xảy ra trong đời sống con người cũng chỉ vì chúng ta đòi hỏi quá đáng. Chúng ta có những ý tưởng lãng mạn như là gặp đúng ý trung nhân, thương nhau và sống với nhau hạnh phúc suốt đời; nghĩa là chúng ta sẽ không cãi nhau, một liên hệ hoàn hảo. Nhưng còn cái chết thì sao ? Bạn có thể nghĩ, " nếu hai chúng ta có thể chết cùng lúc." Đây chỉ là hy vọng phải không ? Hy vọng và rồi thất vọng khi một người thân yêu vĩnh viễn ra đi trước khi bạn đổi ý bỏ đi theo một người nào khác.

      Bạn có thể học được rất nhiều từ nơi trẻ em, bởi vì trẻ em không biết che dấu những cảm xúc. Khi chúng vui thì cười, khi chúng buồn thì khóc. Một lần tôi đến nhà một cư sĩ. Khi chúng tôi đến , đứa con gái trông thấy cha nó thì rất là vui mừng. Người cư sĩ nói với con: "Cha phải đi với Thầy Sumedho, chỉ một chút thôi sẽ trở lại trong vòng một tiếng." Đứa bé chưa đủ trí khôn để hiểu câu "trở lại trong vòng một tiếng", và nó bắt đầu la khóc. Bởi vì sự chia ly đột ngột của người thân yêu là một nỗi khổ lớn. Hãy để ý xem trong cuộc sống của chúng ta, khi nào có khổ đau là lúc mà ta phải chia ly với người thân yêu, hay mất đi một vật gì mà ta yêu thích; hoặc phải rời xa một chỗ mà ta hằng yêu mến. Là người lớn chúng ta có đủ sáng suốt để hiểu rằng chúng ta đi rồi sẽ trở lại, nhưng nỗi buồn vẫn man mác đâu đây.

      Từ tháng 1 đến tháng 3, tôi du lịch khắp nơi... mỗi lần đến phi trường, gặp người đón tôi "chào anh / chị", và vài ngày sau thì "chào tạm biệt". Lúc nào cũng có ý "sẽ trở lại" và tôi nói "vâng, tôi sẽ trở lại"... và như vậy tôi hứa với tôi sẽ trở lại năm sau. Ta không thể nói "chào vĩnh biệt " với người mà chúng ta mến thương, phải không nào?

      Vì vậy, chúng ta nói "tôi sẽ gặp lại anh / chị ; tôi sẽ điện thoại, tôi sẽ viết thư, và hẹn gặp lại..." Chúng ta nói lên những câu nầy để che đậy phần nào cảm giác buồn xa cách. Đây là cảm giác tự nhiên.

      Trong Thiền định chúng ta bắt đầu chứng nhận đau khổ, để hiểu rõ nó hơn, và không đè nén, hoặc bỏ nó qua một bên. Bên Anh, người ta có khuynh hướng đè nén đau khổ khi người thân qua đời.

      Họ tránh không khóc, và ráng giữ bình tỉnh. Và khi họ bắt đầu thực tập Thiền thì họ thấy, họ tự nhiên khóc cho một người đã chết cách đây 15 năm. Họ đã không khóc và chờ 15 năm sau mới giải tỏa nỗi lòng. Khi mà người thân qua đời, chúng ta không muốn chấp nhận nỗi khổ, và không khóc vì khóc là yếu đuối, và mắc cỡ với mọi người chung quanh. Do đó, chúng ta đã đè nén và giữ lại những cảm xúc, không nhận thức được đây là một hiện tượng tự nhiên.

      Trong Thiền định, chúng ta để cho tâm trí rộng mở và để cho những gì bị đè nén, chèn ép, được nhận diện, và khi mà những vấn đề được nhận diện thì chúng sẽ tự dưng chấm dứt. Chúng ta để cho mọi việc trôi theo tiến trình của nó-Sanh và Diệt. Chúng ta để nó tự nhiên mất đi hơn là chúng ta xua đuổi nó đi. Thông thường thì chúng ta hay đẩy những vấn đề qua một bên, từ chối không chấp nhận hoặc không chịu ý thức sự hiện diện của chúng. Khi chúng ta ngắm nhìn hoa đẹp, trời xanh, đọc sách, xem Ti Vi, tức giận, chán chường, hoặc làm việc gì đó. Chúng ta không khi nào nhận thức được một cách hoàn toàn những việc nầy. Chúng ta không nhận thức được nỗi buồn, nỗi thất vọng của chính mình vì chúng ta thường tìm cách khỏa lấp chúng bằng cách: ta có thể ăn bánh, kẹo, và nghe nhạc. Rất dễ dàng để thấm hồn vào âm nhạc, tránh được sự nhàm chán, thất vọng. Chúng ta lệ thuộc vào việc xem Ti Vi, và đọc sách. Có rất nhiều sách đến nỗi ta cần phải đốt bớt, vì có bao sách vô bổ. Mọi người thi nhau viết về mọi thứ mà không có thứ nào đáng để nói cả. Ngày nay có bao tài tử viết và làm phim về cuộc đời của họ. Rồi có những đề mục về tán gẫu. Con người muốn tránh sự nhàm chán của đời sống riêng mình, cho nên đọc những chuyện về thiên hạ, chuyện liên quan đến tài tử nổi tiếng và những nhân vật quan trọng. Chúng ta không bao giờ nhận thức được bản chất thật của sự nhàm chán. Khi mà sự nhàm chán xuất hiện thì tức thời chúng ta chạy tìm những cái hấp dẫn, những thú vui khác để khoả lấp nó. Nhưng trong lúc Thiền định, chúng ta để cho sự nhàm chán bộc lộ. Chúng ta để cho thất vọng, chán chường, ganh ty?giận dữ, oán ghét... xuất hiện và ý thức nhận diện "chúng" với bản chất thật của chúng không thêm không bớt.

      Bằng vào " từ tâm" và trí tuệ, chúng ta để cho những điều nầy tự "Sanh và Diệt" tốt hơn là đè nén chúng theo thói quen. Nếu chúng ta cứ muốn đè nén những cảm xúc thì đây là một thói quen không tốt. Khi chúng ta thất vọng và chán chường, chúng ta không thể nào thưởng thức được những vẻ đẹp; vì bình thường chúng ta chưa bao giờ nhận thức được bản chất thật của cái đẹp.

      Tôi còn nhớ một kinh nghiệm trong năm đầu thực tập Thiền ở Thái Lan. Trong năm đó, tôi sống một mình trong chòi lá và những tháng đầu thật là khủng khiếp... Bao nhiêu là thứ nổi lên trong tâm thức ham muốn, sợ hãi, khủng hoảng và ganh ghét. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình có nhiều ganh ghét đến thế. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình ghét ai, nhưng trong những tháng đầu Thiền định, tôi hình như ghét tất cả mọi người. Tôi không thể nghĩ tốt về ai hết, có rất nhiều phản kháng hiện ra trong tâm thức. Cho đến một buổi trưa, tôi bắt đầu thấy một điều lạ... Lúc đó, tôi nghĩ là tôi điên. Tôi thấy người ta đi ra khỏi óc của tôi. Tôi thấy mẹ tôi bước đi khỏi óc tôi và tan vào trong hư không. Rồi cha và chị tôi bước đi kế tiếp. Đây là một kinh nghiệm rất là khó chịu.

      Sáng hôm sau thức dậy nhìn quanh, tôi cảm nhận và thấy rằng tất cả mọi vật đều tuyệt đẹp. Tất cả, kể cả những cái bất toàn cũng đẹp. Tôi trong tình trạng ngạc nhiên cực điểm. Cái chòi được dựng nên rất thô sơ, nhưng lúc ấy tôi như sống trong cung điện. Những cây cằn cỗi trông như khu rừng xanh tươi, đẹp đẽ. Ánh nắng tràn ngập qua cửa sổ chiếu lên một cái dĩa plastic trông thật là đẹp vô cùng. Tôi sống trong cảm giác tươi đẹp ấy trong vòng một tuần lễ và chiêm nghiệm nó; và tôi đột nhiên hiểu rằng mọi vật có chu trình của nó và chỉ khi nào tâm thức thật sáng suốt thì ta mới cảm nhận được một cách đầy đủ.

      Trong bao tháng, cửa sổ có rất nhiều bụi bám, nhưng tôi không hề hay là cửa sổ dơ. Mãi cho đến lúc đó, tôi mới nhận ra rằng mình đã nhìn thấy mọi việc qua khung cửa sổ dơ bẩn. Và vì thế, cho nên tất cả những gì tôi thấy đều mang màu sắc xám, xấu xí. Thực hành Thiền là "lau chùi cửa sổ", là thanh lọc tinh thần, để cho mọi việc đến và đi không chút vướng bận.

      Một khi đạt "Giác ngộ", kiến tánh, chúng ta sẽ nhận xét một cách rốt ráo bản chất thật của sự vật. Không còn bám víu vào cái sắc tướng nữa. Nhờ vậy chúng ta không còn bị cuốn theo thói quen qua cái nhìn của Vô minh mà thật sự thấy rõ lẻ "tự nhiên" của tạo hóa.

      Có sanh là có già, có bệnh và có chết. Nhưng đây là nói về thân thể của bạn, không phải bạn. Thân thể của bạn không thật là của bạn. Không cần biết bạn có những đặc điểm gì, cho dù bạn có khoẻ mạnh hay đau yếu, đẹp hay không đẹp, trắng hay đen tất cả đều là Vô Ngã. Đó là ý nghĩa của Anatta. Thân thể con người thuộc về thiên nhiên, nó bị chi phối bởi thiên nhiên, sanh ra, lớn lên rồi già, rồi chết.

      Biết là biết như thế, nhưng chúng ta vẫn bám víu vào thân thể nầy rất nhiều. Ta có thể nói: "Tôi là người sáng suốt, tôi sẽ không khi nào bám víu vào thân nầy." Như vậy thì là ta đã quá lý tưởng rồi. Tựa như chúng ta muốn leo lên ngọn cây, ta nói : "Tôi đáng lý phải ở ngọn cây, không phải ở dưới đất." Nhưng thật ra ta phải khiêm mình chấp nhận là ta hiện ở gốc cây, phải nhìn lại những việc xem như tầm thường, trước khi ta biết nhận diện được cái gì là ngọn cây. Đây là chiêm nghiệm một cách sáng suốt. Khi mà tâm thần được chút gì trong sáng, ta cũng không nên bám vào cái mà gọi là thanh tịnh, sáng suốt. Bởi vì cả đến những cảm giác, ý tưởng cao tột, trong sáng nhất cũng là Vô thường, vì chúng đều dựa vào những yếu tố khác để mà hiện hữu.

      Niết Bàn thì khác. Những nguyên nhân xấu hay đẹp, hay hoặc dở, thanh cao hay gì gì đi nữa chúng xuất hiện và rồi biến mất, không dính dáng gì đến bản thẻ của Niết Bàn. Chúng ta không nên chán bỏ thế giới nầy, vì khi chúng ta cố gắng loại bỏ những cảm xúc thì chúng ta có thể sẽ trở nên thờ ơ, lãnh đạm. Chúng ta cần phải kiên nhẫn. Cuộc sống của con người là một cuộc sống trong Thiền định. Hãy xem phần cuối cuộc đời ta như là một buổi thực tập Thiền dài hơn là 10 ngày. Khi mà bạn Thiền và "đạt" đến trình độ cao hơn, thì những việc tầm thường hằng ngày dường như là trở nên nhàm chán. Bạn đang "lên cao" và khi trở về với cuộc sống thực tại, với những công việc độc điệu, thì còn tệ hơn là lúc bạn chưa Thiền, phải không nào ? Khi đến mức độ cao thì tự nhiên sinh hoạt hằng ngày trở nên quá tầm thường, thô kệch, và khó chịu.

      Sự sáng suốt ( Giác ngộ ) không phải là thích thanh cao và chán ghét những cái thô kệch, nhưng nhận chân ra là dù thanh cao hay thô kệch thì cũng chỉ là những giai đoạn của Vô thường. Vô thường thì là bất như ý. Vì vậy, chúng sẽ không bao giờ làm ta hài lòng vì chúng là Vô ngã. Chúng không phải là ta và ta không phải là chúng.Vì vậy giáo lý của Bụt dạy thật là đơn giản có gì đơn giản hơn là "cái gì có sanh thì có diệt" . Đây đâu phải là một triết lý cao siêu gì, kể cả dân bộ lạc thiếu học cũng biết điều nầy. Bạn không cần phải vào đại học mới biết được điều nầy.

      Khi ta còn trẻ, ta nghĩ " Tôi còn những bao năm của tuổi trẻ và hạnh phúc ". Nếu ta nghĩ ta đẹp thì " Tôi sẽ trẻ , sẽ đẹp hoài hoài ". Nếu ta 20 tuổi, đang vui chơi, thì cuộc sống thật là tuyệt vời và nếu có ai đó nói : " Anh ngày nào đó sẽ chết ". Ngay khi ấy, ta nghĩ đây là một kẻ đang chán đời, không nên mời anh ta đến nhà mình nữa. Chúng ta không muốn nghĩ đến cái chết, chỉ lo nghĩ đến cuộc sống là đẹp, là vui. Chúng ta có thể có được bao nhiêu niềm vui trong Đời ?

     Khi là Thiền sinh, chúng ta suy ngẫm về già và chết. Đây không phải là ý nghĩ chán đời, bệnh hoạn hay u ám, nhưng mà là bắt đầu hiểu được chu kỳ của cuộc sống, để sống một cách thận trọng hơn. Bao người làm những việc rất dã man, vì họ không chịu suy nghiệm về cái chết của chính họ. Họ chỉ chạy theo những dục vọng và cảm thọ nhất thời, chỉ muốn được phần mình và rồi thì tức giận, chán chường khi mà cuộc sống không đem lại cho họ những gì họ mong muốn. Hãy suy ngẫm lại cuộc đời của bạn, suy ngẫm về cái chết, cũng như những tiến trình tự nhiên của tạo hóa . Ta nên chiêm nghiệm lại niềm vui cũng như niềm thất vọng. Hãy nhận xét xem chúng ta cảm giác như thế nào lúc được cũng như lúc mất, lúc ưa cũng như lúc ghét. Khi mà chúng ta đang buồn, chúng ta đọc một quyển sách và chợt có niềm hứng thú cao độ. Nhưng nên nhớ là cho dù cảm giác cao đến đâu đi nữa, tất cả cũng chỉ là vô thường.

      Chẳng hạn như muốn được cảm giác vui vẻ, bạn phải tập như thế nào để có được niềm vui ấy hoài hoài. Nhưng một khi công việc ấy trở nên máy móc, độc điệu thì bạn không còn cảm thấy vui thú nưã. Do đó, dựa vào hứng thú tôn giáo thì chắc chắn là thiếu xót. Bởi vì khi bạn quá bám vào sự hứng thú tìm hiểu về Phật Giáo chẳng hạn; khi bạn nhàm chán thì sao ? Bạn sẽ tức khắc chạy đi tìm một tôn giáo mới để gây cảm hứng cho mình . Chẳng hạn như là bám víu vào tình yêu, một khi một mối liên hệ vừa chấm dứt thì bạn bắt đầu đi tìm một tình yêu mới . Vài năm trước ở Mỹ, tôi có gặp một cô đã lập gia đình những đến sáu lần, cô ấy chỉ mới 33 tuổi. Tôi nói: "Cô đáng lý đã phải học hỏi được nhiều nơi lần đỗ vở thứ 3, thứ 4. Tại sao cứ tiếp tục cưới rồi ly dị ?" Cô trả lời: "Vì Tình Yêu, tôi không thích mặt trái của tình yêu. Nhưng tôi yêu "tình yêu"."

      Ít ra cô ta cũng thành thật, nhưng không sáng suốt mấy. Tình yêu, sự hứng thú, sự náo nhiệt, phiêu lưu , luôn hiện hữu, khi đạt đến tột đỉnh của nó, rồi thì mặt trái của những thứ nầy xuất hiện, giống như khi chúng ta hít vào thật sâu rồi thì phải thở ra. Thử tưởng tượng sự hít vào. Y như là có nhiều tình yêu, cái nầy nối tiếp cái kia. Bạn có thể hít vào trong bao lâu ? Hít vào thì phải có thở ra, cả hai đều cần thiết. Sanh thì Tử, hy vọng thì rồi thất vọng... Vì thế khi chúng ta bám vào niềm hy vọng thì tất nhiên là chúng ta sẽ thất vọng. Khi ta bám vào sự náo nhiệt thì nó sẽ đưa ta đến sự chán chường. Khi ta bám vào tình yêu thì sẽ vỡ mộng và ly dị là điều không tránh khỏi. Khi ta bám vào sự sống thì nó đưa ta đến cõi chết. Vì vậy, nên nhận thức rằng sự bám víu vào bất cứ cái gì đều là đau khổ, vì chúng là vô thường, là vô ngã. Đừng đòi hỏi nơi chúng những gì mà chúng không thể cho ta được. Có bao người lúc nào cũng dường như chờ đợi, hy vọng vào một sự thành công, hay niềm hoan lạc nào đó; hoặc giả lo lắng, sợ hãi về một điều bất tường sẽ xảy ra trong tương lai.

      Nhưng hy vọng nhiều thì cũng sẽ thất vọng nhiều. Do đó, khi ta suy ngẫm và bắt đầu hiểu rằng cái gì làm cho ta đau khổ. Ta thấy rằng chính mình là người làm cho mình đau khổ. Vì Vô minh, vì không hiểu rõ lý vô thường của sự vật, chúng ta đã đồng hóa mình với sự vật và do đó đã đau khổ, thất vọng. Khi mà ta có thể buông bỏ, không một chút vướng bận thì đây là Giác ngộ. Khi chúng ta hiểu rõ được thế giới dục lạc, ta có thể sống chung với nó mà không bị lệ thuộc. Ta không còn đòi hỏi thế giới nầy phải làm hài lòng chúng ta, hay cho chúng ta sự an toàn tuyệt đối vì biết rằng, càng đòi hỏi thì chúng ta sẽ càng thất vọng, khổ đau. Ta biết dùng thế giới nầy để thực tập bố thí, để thực tập từ tâm.

      Khi chúng ta không còn đồng hóa với sự vật, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả là Vô ngã. Khi sự vật đổi thay, ta có thể an tâm chịu đựng cái bất toàn của nó. Ta có thể âm thầm chịu đựng bệnh hoạn, đau đớn, đói lạnh, thất bại hay chê bai. Khi ta không còn bám víu vào thế giới nầy thì dù cho nó có thay đổi đến đâu đi nữa, dù tốt dù xấu, ta cũng có thể thích ứng. Khi ta còn bám víu thì ta khó có thể thích ứng được như ý, chúng ta luôn luôn phản kháng, chống đối, muốn điều khiển mọi thứ theo ý mình, nhưng hoài công, chỉ còn cảm giác bất mãn, sợ hãi và thất vọng vì cuộc đời sao mà hão huyền đáng sợ.

      Khi ta không có thời gian tìm hiểu, chiêm nghiệm về cuộc đời thì cuộc đời là một nơi đáng sợ. Cuộc đời giống như là một khu rừng vậy: bạn không biết sau cái cây kia, sau cái bụi kia, một con dã thú, một con cọp, rắn độc hay rồng dữ đang chờ bạn. Niết Bàn là rời khỏi khu rừng đó. Khi chúng ta hướng về Niết Bàn tức là chúng ta đang trên đường tìm an lạc cho bản tâm.

      Trạng thái của tinh thần có thể là vui, buồn, khổ, phấn chấn, hoặc thất vọng, thương hay ghét, lo lắng hoặc sợ hãi. Hãy tưởng tượng một căn phòng, ví dụ cho tinh thần, chúng ta bỏ thời gian để soi mói những người trong căn phòng, để xem là ta ưa hay không ưa, họ như thế nầy, như thế kia, nhớ lại họ đã làm gì trong quá khứ, và sẽ làm gì trong tương lai... Nếu ta chịu khó đừng để ý mọi người trong căn phòng; nhưng hãy để ý khoảng không trong phòng. Khoảng không gian nầy có thể chứa đựng tất cả người, vật, và những trạng thái khác nhau. Hãy xem tinh thần ta là khoảng không đó, cho dù là trống không hay chứa đầy sự vật, chúng ta chỉ để ý đến hư không. Khi ta sống với khoảng không nầy thì những gì đến cũng như đi không còn lôi kéo ta được nữa. Chúng ta tập buông bỏ. Chúng ta từ bỏ không đồng hóa mình với sự vật, vì biết là chúng vô thường, vô ngã.

      Đây là môn Thiền Vipassana. Chỉ cần nhìn lại, nhận thức, lắng nghe, soi xét những gì đến cũng như đi. Mọi vật dù thô thiển hay thanh cao, tốt hay xấu, chúng đến rồi đi. Chúng ta không phải nam cũng không phải nữ, nói chi đến xấu hay đẹp những trạng thái đổi thay nầy là vô ngã. Hiểu được như vậy thì đây là con đường giác ngộ của người Phật tử, tiến dần đến Niết Bàn. Bây giờ bạn có thể hỏi, " Nếu tôi không phải là những trạng thái của tinh thần, không nam cũng không nữ, vậy thì tôi là cái gì ?" Câu hỏi nầy ví như con mắt muốn nhìn thấy con mắt. Bạn chỉ cần biết cái gì không phải là mình thì đã giải quyết được phần nào vấn đề rồi, phải không nào ? Chẳng hạn tôi nói "Tôi là ai? Tôi phải đi tìm tôi", thế rồi tôi kiếm dưới bàn thờ, dưới thảm, sau màn cửa... bạn sẽ nghĩ," Thầy Sumedho chắc điên rồi. Ông đang tự kiếm mình." Khi ta đồng hóa với sự vật thì ta sẽ đau khổ và thất vọng.

     Vấn đề nằm ở chỗ biết buông bỏ hay là bám víu. Bạn không cần loại bỏ những cảm giác, chỉ cần theo dõi và học hỏi, đừng để cho mình bị lôi cuốn theo chúng. Tiếp tục theo dõi, lắng nghe, tỉnh thức, có chánh niệm, thì trí tuệ sẽ dần sáng suốt. Hãy dùng trí tuệ nầy để nhận thức sự vật đến và đi, bạn không cần làm gì hết, chỉ cần tỉnh thức trong từng giây phút hiện tại và những giây phút kế tiếp.

1275

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2009

Câu Chuyện Bát Mì



Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường
Trát Hoảng, Nhật Bản.



o O o



Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho
đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai
bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn
vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười
giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ
ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu
được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều
đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn
thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

-
Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay
mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có
một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần
đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống,
khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn".

Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu
Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì,
đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con."

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:

- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã
đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được
đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước
tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ.

Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người
vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng
giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm
trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn
nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh
giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.



o O o



Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài
câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang
lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.

841

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2009

Ớt nào là ớt chẳng cay...



Vợ ra đón chồng ở sân bay. Khi họ đang đứng chờ hành lý, một cô tiếp viên hàng không đi ngang qua, ông chồng xoắn xuýt:

- Cám ơn cô Lewis về chuyến bay nhé!

- Ai đấy? - bà vợ hỏi ngay.

- À, cô tiếp viên trên chuyến bay tôi vừa đi đó mà.

- Tôi cược là ông còn có số điện thoại và địa chỉ cô ta nữa.

- Đâu có, tên các tiếp viên, phi công và người phụ lái được ghi trên bảng gắn trước khoang hành khách, ai mà chả thấy.

- Được rồi! Nếu thế thì hãy cho tôi biết tên viên phi công và người phụ lái là gì?



o O o


Con nào?

Bà vợ cầm lá thư chìa ra trước mặt chồng, nói giọng nghẹn lại vì tức giận:

- Hôm nay tôi đã tìm thấy lá thư tình trong túi áo của ông. Trời ơi, ông đã đi cặp bồ với con nào rồi, phải không?

Ông hãy nói mau, con nào đã viết lá thư tình này cho ông để tôi xé xác nó ra!

- Ồ! Thế bà không nhận ra đó chính là lá thư tình bà viết cho tôi hồi chúng mình mới yêu nhau ư?2608

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2009



Anh muốn quên em trong đêm vắng,
Bằng chén rượu nồng đầy cay đắng,
Anh muốn xóa đi hình bóng em,
Bên ngọn lửa hồng đuổi màn đêm,
Anh biết giờ này vẫn yêu em,
Như dìm đời mình xuống vực đen,
Như tự mình rơi vào ngục tối,
Nhưng con tim anh càng nhức nhối...
Bởi trong lòng anh không thể dối,
Trái tim này vẫn thầm lặng yêu em...
Vì sao em lai thế hỡi em?
Để nỗi sầu anh thêm sầu thêm,
Để mỗi chiều tà hoàng hôn phủ,
Dâng ngập lòng anh nỗi nhớ em.
Nhó lúc bên em thật êm đềm,
Nhó lúc hôn lên làn môi mềm,
Anh lại thấy tim anh ấm lại,
Bao kỷ niệm xưa chẳng thể quên.
Liệu em có còn nhớ tới anh ?
Nhớ cuộc tình vừa mới chớm xanh,
Sao nỡ sớm tàn như chiếc lá,
Vừa gặp gió đông đã lìa cành.
Giờ phút này em làm gì hỡi em ?
Trong vòng tay ai thật êm đềm ?
Còn anh một mình trong đêm trắng,
Khói thuốc, rượu nồng càng thêm đắng.
Anh mong cho bình minh mau tới,
Xua đuổi màn đêm đầy đen tối,
Cùng tia nắng ấm của mặt trời,
Trả lại cho anh cả cuộc đời...
Cuộc đời tươi sáng ở bên em,
Ánh mắt, nụ cười thoáng nhẹ êm,
Tay nắm trong tay đầy ân ái,
Để cuộc tình này còn xanh mãi...
Liệu có còn ngày đó không em ???
Khi anh biết con tim em đã chết...
Khi anh biết kỷ niệm xưa đã hết...
Mà sao anh vẫn chẳng thể quên,
Để trái tim này rỉ máu thêm...
2517

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2009

Hoa Sen Trong Người



Không có giai cấp khi trong máu người cùng đỏ.
Không có giai cấp khi trong nước mắt người cùng mặn.


Mai hôm ấy, kinh thành Xá Vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các đường lớn ngựa xe tấp nập; từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi, giàu mạnh của số đông người trong hai giai cấp Sát Ðế Lợi và Bà La Môn ấy không còn nữa, mà những cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ Xá và Chiên Ðà La hiện ra quá rõ rệt: những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm... Những đứa trẻ đang đùa giỡn chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật nghèo khổ lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn...

Như lệ thường, sáng nay Ðức Thế Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không phân biệt nghèo, giàu, sang, hèn; Ngài đi hết phố này đến xóm khác.

Ni Ðề, một thanh niên thuộc giai cấp Chiên Ðà La, giai cấp thấp nhất ở Ấn Ðộ, đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy Ðức Phật, chàng bối rối, sợ sệt, vội rẽ qua đường khác và tự thanh trách; chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa, thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong cuộc sống? Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình ảnh trang nghiêm; sáng rực hào quang của Ðức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong lòng chàng: Ôi! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp Ðức sáng suốt kia. Càng nhìn lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp Ðức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn  toàn của Ngài, chàng được nghe nhiều người kể lại.

Hiểu tâm niệm Ni Ðề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, Ðức Phật bước nhanh về phía Ni Ðề. Thấy Phật đến, Ni Ðề hoảng hốt: Vì tự thấy mình nhớp nhúa không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.

- Con ôi! Như Lai đến với con đây! Sao con lại tránh? Ðức Phật ở xa nói lại với một giọng trong thanh, êm ái.

Ðể đôi thùng xuống, run rẩy Ni Ðề quỳ thưa:

- Bạch Ngài con không dám... Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài đừng đến gần con...

Ðức Phật bước thêm và đến sát Ni Ðề. Ni Ðề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương Ðức Phật nói:

- Con ơi! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như Lai đến với con, chứ không phải con đến với Như Lai. Hơn nữa Như Lai nay không phải là người trong giai cấp vua chúa như Thái tử Tất Ðạt Ða ngày xưa, mà là người của tất cả chúng sanh, nhất là hạng người đau khổ như con. Như Lai muốn nói với con một vài câu chuyện... Nghe qua những lời nói dịu hiền và có lý của Ðức Phật, Ni Ðề bớt lo sợ và nhìn Ðức Phật một cách kính mến, chàng thưa:

- Chẳng hay Ðức Thế Tôn vẫn đoái hoài đến người cùng khổ này sao? Và con đây cũng được Như Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo của Như Lai nữa sao?

Một cách nghiêm nghị Ðức Phật hỏi: Ai đã làm cho các con thắc mắc những điều ấy?

- Bạch Thế Tôn: những đạo sĩ Bà La Môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người trong dòng Sát Ðế Lợi mới có quyền thờ kính Hiền Thánh và có quyền giao thiệp với người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc của họ làm và phải trọn đời phục dịch họ...

Ni Ðề muốn nói nhiều nữa song Ðức Phật ngắt lời và hỏi:

- Vậy con không biết Như Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình đẳng và an vui sao?

Thôi, giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không? Và con muốn sống gần Như Lai không?

Sung sướng muốn chảy nước mắt, Ni Ðề đáp: - Ðó là điều mà con tưởng không bao giờ thực hiện được; nếu được Như Lai cứu độ thì đó là một phước lành của con vậy.

Dịu dàng Ðức Phật cầm tay Ni Ðề dắt đến bờ sông gần đấy... Tắm rửa xong, Ni Ðề theo Ðức Phật trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn được Phật và Giáo Hội thâu nạp cho là Tỳ kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện vị Tỳ kheo mới nhập đạo này đắc quả Tu Ðà Hoàn rồi lần chứng quả A La Hán.

Bấy lâu Ba Tư Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao Ðức Phật là người của dòng hào thế Thích Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới. Nay lại được nghe Ðức Phật vừa độ cho Ni Ðề, ông càng bất bình hơn nữa. "Ðảnh lễ - ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni Ðề được...!". Ba Tư Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba Tư Nặc vương liền cùng với các vị cận thần đi đến Tịnh xá Kỳ Hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni Ðề là Tỳ kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.

Vừa đến tam quan Tịnh xá Kỳ Hoàn, thấy một vị Tỳ kheo đang ngồi trên một hòn đá lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba Tư Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ kheo ấy vào bạch Phật xin cho ông yết kiến. Nhận lời, vị Tỳ kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn mình đâu mất, làm cho Ba Tư Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng khâm phục!

Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ kheo khi nãy trả lời cho Ba Tư Nặc vượng:

- Ðại vương cứ vào, Ðức Thế Tôn đã hứa cho.

Ba Tư Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.

Ðảnh lễ Ðức Phật xong, Ba Tư Nặc vương liền hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên là gì mà có thần thông quảng đại như vậy? Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng, tự tại...

- Ðại vương! Ấy là Ni Ðề, người gánh phân ở thành Xá Vệ mà ta đã độ cách đây hơn một tháng, nay đã chứng quả A La Hán nên đã có những thần lực như vậy.

Thấy Ba Tư Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ, Ðức Phật ôn tồn nói thêm:

- Này Ðại vương! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm tinh khiết. Ðại vương có thích và có ưa hái khống?

- Bạch Thế Tôn! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn hái để ngắm nghía và trang hoàng cả.

- Ðại vương! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con người phân chia), nhưng nhờ sự trau dồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính
cúng dường không?

- Bạch Thế Tôn! Ðã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính cúng dường lắm!

- Lành thay! Ðại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng "giá trị chân thật" của con người.

Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của Ðức Phật cũng làm tan những ý niệm khinh rẻ chán ghét Ni Ðề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba Tư Nặc vương thế ấy... Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni Ðề, vị Tỳ kheo mà ông đã gặp ở tam quan.

Ba Tư Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A La Hán Ni Ðề ngày mai vào nội thành để giáo hóa cho hoàng tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa cho, Ba Tư Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung thỉnh vị A La Hán thần thông tự tại khi nãy.

Ðược vị A La Hán này chấp nhận, Ba Tư Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường về ông không ngớt tán thán Ðức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo Hội của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ.


Hết
468

Thứ Hai, 17 tháng 8, 2009

Làm thủ môn sững sờ



Phóng viên thể thao hỏi:

- Xin cho biết, trong cuộc đời cầu thủ, đã bao giờ anh sút bóng mà thủ môn chỉ biết sững sờ đứng ngây như pho tượng nhìn bóng bay vào lưới?

- Nhiều không nhớ hết được.

- Xin cho biết bí quyết của những cú sút?

- Chẳng cần bí quyết gì cả. Đó là những lần tôi tung lưới nhà.1930

Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2009

Đành phải xây cầu đến Hawaii



Một tỷ phú đang đi dạo dọc bờ biển thì nhặt được một cái chai. Khi ông ta mở nút thì một vị thần xuất hiện và nói:
- Vì sự giải thoát này, ta cho anh một điều ước. Tỷ phú đã có mọi thứ trên đời, ông nói:
- Tôi hay đến Hawaii nghỉ mát, nhưng lại sợ đi máy bay và tàu thủy, hãy tạo cho tôi một cây cầu từ đây đến đó. Vị thần đắn đo vài phút rồi nói:
- Điều đó thật khó thực hiện. Phải đóng hàng triệu trụ lớn xuống biển sâu, đổ hàng tỷ tấn bê tông giữa đại dương... Rồi còn thuỷ triều, bão táp, động đất... Yêu cầu này thật quá sức của ta. Ông tỷ phú đành thay đổi điều ước:
- Thế thì hãy nói cho tôi những bí ẩn của phụ nữ. Điều gì khiến họ khóc và cười, tại sao tính khí họ thất thường, làm thế nào để họ hài lòng? Vị thần trở nên lúng túng hơn, chân tay thừa thãi, cuối cùng chặc lưỡi:
- Thôi được, anh muốn cây cầu cho hai hay bốn làn xe?
2219

Anh Yêu Hoa Mimosa





Cỏ nước đong đưa cái bóng mập mờ, xuống dòng nước phớt xanh, trông thật dễ thương, cỏ mọc dày từ đáy suối, như cây mạ non mảnh dẻ, vượt lên dòng nước mát. Tiếng nước chảy rì rào trong lòng suối, nép mình dưới bờ lau sậy lô nhô lượn sóng.

Cây mimosa cánh lá nhung lam xám mông mốc, mỗi mùa xuân đến, lại khoe hoa sắc vàng, óng ánh mịn mượt như nhung, nở tung hết cánh li ti từng chùm, trông thật duyên dáng.

Ý nghĩ của Kim bỗng chốc sáng rỏ, như tấm gương vừa rửa sạch. Hồi còn ấu thơ, chị ưa hái đài hoa mimosa, nâng niu đoá hoa, khum khum ở lòng bàn tay, đi về trong con ngỏ mòn thân quen, vừa đông vừa vui. Dù sương gió hay nắng chiều, làm cánh hoa ẩm ướt, rơi rụng ít nhiều. Chị ép xương hoa vào trang vở học trò. Ngày ấy, với tất cả sự mơ mộng lãng mạn, nâng niu, trang trọng giữ gìn mật thiết, bởi vì "chàng" rất đỗi yêu...hoa.

Bây giờ, chị trồng lại vài cây mimosa, sát hông nhà, mặc dù mùi hoa hăng hắc, không dễ chịu chút nào. Ðể làm gì thế ? Làm gì! Khi Kim đau đớn, xót xa, ngỡ ngàng nhận ra, màu vàng hoa mimosa, là màu tượng trưng cho sự phản bội. Ôi! Chính là sự phản bội đau buốt, trắng trợn, rùng rợn kinh khủng!

Bầu trời hoe hoe màu cam, bỗng đổi nhanh thành màu vàng anh, màu lưu huỳnh rồi tím thẫm. Những áng mây lẻ tẻ trên không trung, hắt ánh nắng chiều vàng thắm, bay ngang qua đỉnh tháp chuông nhà thờ con gà, chợt dậy lên lòng Kim, nỗi choáng ngợp buồn đau.

Chị chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu lạnh lẽo. Anh đã ra đi, "màu phản bội" vàng phai trên mái tóc chị vĩnh viễn. Thật sự rồi. Anh đã tự do rong chơi thanh thỏa, đi thênh thang vào vùng cỏ ẩm, hoang vu nào, xa lắc xa lơ.

Mặc chị cuồng điên, khản cổ kêu gào thảm thiết, vật vã như người điên, chị ngất xĩu biết bao lần, bên cổ áo quan, cõi lòng tan nát, như kẻ mất hồn, vô tri vô giác. Mái tóc đen nhánh vén cao, bỏ rơi lại cụm tóc ngắn, đong đưa trên cần cổ trắng nõn xưa, nay xỏa tung ra thành suối tóc huyền, dài chấm bắp chân, phủ choàng lên tấm áo quan, mỗi khi chị úp mặt vào lòng đất, bên huyệt mộ.

Những hòn đất tiếc thương, đưa tiễn anh, đến nơi an nghĩ cuối cùng, đã quăng trên đầu, trên tóc chị. Vất vả lắm, họ mới kéo chị lên, dìu ra xa. Mặt cỏ mới phủ hình hài anh, nồng ấm hơn lên, giữa tình quê, tình đồng đội, tình bạn, tình chồng vợ, khi bước chân ghé qua mồ, đặt lên nhánh hoa tươi.

Chị chửi người điều động chồng mình đi công tác, vào vùng chiến địa. Chửi bọn dã man tàn ác, đã đặt mìn, đắp mô, giết chồng chị. Tội nghiệp ông Trưởng Ty (của anh chồng khuất núi) đứng trước cảnh tang thương, quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ, những vòng cườm đen hoa tím, hoa đen, chưa khô dòng mực phân ưu đó.

Ông cúi đầu, lắng nghe điều không phải, từ miệng người đàn bà bất hạnh, cuồng điên, mà thương mến chị, buồn bã, chia xẻ, hơn là tức giận. Ai biết được nước mưa, hay nước mắt đắng cay, quyện lưng tròng nhau?

Mặc chị kể lể dông dài sự tình :

- Buổi chiều hôm trước, anh chạy xe vespa vào Ty, đón tôi đi làm về. Hai vợ chồng ăn cơm tối, nói chuyện vui vẻ bên nhau. Nghỉ ngơi giây lát, anh thay áo quần đi công tác. Như bao cặp vợ chồng son yêu nhau khác, anh âu yếm hôn lên má vợ, dặn dò tôi nhớ đi ngủ sớm, khoá cửa cẩn thận. Sáng mai anh sẽ về. Anh nhảy chân chim xuống mấy bậc lầu ra đi, miệng huýt bản nhạc quen thuộc, yêu thích.

Ra đi. Nhưng nào ngờ, anh chẳng bao giờ quay trở lại mái nhà nho nhỏ, với người vợ thân yêu. Nụ hôn ấm nồng hạnh phúc lứa đôi, như dấu ấn chàm, khắc sâu vào má chị, tạo thành hố nước mắt. Tin khủng khiếp đến lúc hừng đông, khác nào sét đánh ngang tai, chị kêu gào lăn lộn, vật vã trên sàn nhà, đôi má Kim hoắm sâu, vầng trán hằn vết nhăn, đôi mắt lạc thần, nhìn đăm đăm vào hư vô.

Mọi người thân trong gia đình, bạn bè cùng Ty đến chia buồn, phúng viếng, chị không biết, không thấy gì! Chị rủ xuống như cây chuối không lá, bị chặt đột ngột, bởi lưỡi dao ngọt xớt, vô tình.

Liên tiếp những tháng ngày qua, sau đám tang, là tháng ngày, chị sống trong kỷ niệm đắm say, nồng nàn, tràn ngập niềm cay đắng, hối tiếc khôn cùng. Tình yêu đã chết. Chết rồi sao? Ðã vùi sâu dưới ba tất đất? Thế là thực sự hết. Hết rồi! Còn hy vọng gì nữa.

Ngày cuối tuần ra nghĩa điạ số Sáu, chị tặng anh bó hoa mimosa tươi, đốt nén nhang trầm thơm ngây ngất. Chị ngồi bên chân mộ, nói chuyện với người nằm dưới cỏ.

Ôi! Nhìn ảnh anh úa vàng in trên bia mộ, chị giật mình, giao động dữ dội. Vẫn nụ cười tươi, khuôn mặt ấy, duy chỉ có đôi mắt xa xăm và trống vắng, nỗi cô đơn muộn phiền trong chị, nơi anh, nay chìm đắm trong bóng tối vĩnh hằng.

Chị thầm tiếc, sao lỡ trót yêu người, thương màu vàng hoa mimosa lá xám làm chi! Chị thấy ghét loài hoa có từng chùm nụ óng ánh, như viên bi bằng nhung, mà có lần chồng nói với chị, khi anh hái cành hoa, đem về cắm trên chiếc độc bình :

- Người ta nói màu vàng, là màu tượng trưng cho sự phản bội. Anh không tin.

- Sao anh không tin ?

- Qua ngót mười năm yêu em, thì chúng ta làm đám cưới. Anh vẫn yêu màu vàng, và càng yêu em hơn. Cớ sao, họ lại nói màu vàng, là tượng trưng cho sự phản bội? Chỉ phản bội em, khi nào, anh nằm dưới gốc cây mimosa mà thôi.

Trời ơi! Anh nói thế, mà cứ y như là thật. Anh đã nằm dưới cỏ, dưới rể cây mimosa nầy. Sao ông Trời không bắt tội anh đi đày ngoài Côn Ðảo. Trong rừng sâu nước độc. Tận miền sa mạc nắng cháy, hay nơi bão tuyết giá băng? Miễn sao anh sống, chị còn hy vọng, sống lây lất qua ngày, chờ anh. Chị sẽ cố đi tìm anh, dù nghìn trùng xa cách, dù xa xôi hiểm trở vô vàn. Vì tình yêu hai người, thật hạnh phúc tuyệt vời. Ðáng tiếc lắm!

Kinh khủng thay sức mạnh tình yêu, có lực cuống hút, hấp dẫn, cuồng quay đến độ, làm cho hai người luống tuổi, đã bị đau tim, dở khóc dở cười, người dở sống dở chết, thế nầy.

Một buổi chiều vàng phai trên mái tóc quá dài, Kim ra thăm mộ anh Thương, đến nơi, chị ngỡ ngàng thấy bên cạnh mộ chồng, có một lỗ huyệt mộ còn tươi dấu đất. Chị buồn buồn cắm bó nhang, xì xụp khấn vái. Chưa tàn bó nhang, nghe tiếng ồn ào từ sau lưng vẳng lại, thoáng chốc chị thấy hai chiếc taxi đậu bên đường, sáu người xuống xe, hai trong bốn người đó khiêng cỗ áo quan bé tí ti, đi sau là vợ chồng thầy hoạ sĩ kiêm nhạc sĩ dạy đàn, ở ngoài phố Dalat.

Hai vợ chồng già không con, nuôi một chó Pop và một mèo Nat. Họ cưng hai con vật quá thể. Nên cả chó lẫn mèo đều hỗn-láo ngang cơ nhau! Ông lẫn bà đều bị bệnh cao máu, tiểu đường, đau gan, đau phổi, kiêng cử đủ thứ. Mỗi bưã ăn, chó mèo ngồi ăn chung mâm với người.

Chó cổ đeo kiềng bạc, có hột lục lạc rung leng keng khi g1000

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2009

Chó khôn hơn chủ



Phát hiện một chú bécgiê đang điều khiển chiếc BMW một cách điêu luyện trên xa lộ, cảnh sát giao thông chặn chiếc xe lại:

- Bằng lái đâu?

Con chó dùng răng chìa ra một chiếc bằng xịn, ảnh của ông chủ nó.

- Không phải bằng của mày! Phạt 100 USD!



Chú bécgiê tinh khôn lại đưa khoản tiền phạt ra. Chiếc xe được đi tiếp. Đồng nghiệp của anh cảnh sát thắc mắc:

- Sao cậu lại để con chó lái xe đi?

- À, còn hơn là để cho cái "con lừa" ngồi ở ghế sau cầm lái.2693

Chẳng bì...



Bà mẹ chồng nói với cô con dâu:
- Con ạ! Chẳng gì chồng con cũng có 3 bằng kỹ sư, 1 bằng sáng chế. Vậy mà con lại bắt "nhà trí thức" đi chợ và thổi cơm là sao?
- Thưa mẹ, vậy là mẹ chưa hiểu gì về con. Hiện nay con đang là cán bộ của Cục Quản lý và Sở hữu trí tuệ!
2298

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2009

Khác Nhau



Một nhà soạn tuồng hát bóng Ấn Độ ra tuồng cải lương An Nam đưa bản thảo cho ông bầu gánh xem. Năm hôm sau, soạn giả đến hỏi ý kiến. Ông bầu nói:

Tôi muốn ông sửa đoạn chót một chút, thay vì cho tên ác ôn chết bằng dao găm, ông đổi lại bằng một phát súng.

Soạn giả hỏi:

Có gì khác lạ giữa mũi dao và viên đạn, dù sao kẻ ác cũng đền tội là đủ rồi.

Ông bầu mỉm cười:

Khác nhau xa lắm chứ, tôi muốn để tiếng súng nổ cho khán giả giật mình thức dậy đi về nhà chứ!

2885

Bán đảo



Một học sinh đang đọc bản đồ thế giới, thấy có ghi chỗ thì bán đảo, chỗ thì quần đảo, liền thắc mắc với cậu bạn:

- Cậu có biết tại sao chỗ này gọi là bán đảo không?

- Ô hay, thế cô giáo dạy lâu nay mà cậu không biết à? Bán đảo là đảo người ta bán cho nước khác, thí dụ như nước ta trước kia bán cho thực dân Pháp nên gọi là bán đảo Đông Dương...





Thầy: Học nãy giờ, các em có cảm thấy đói bụng không?

Cả lớp: Có ạ, đói quá thầy ơi!

Thầy: Thầy cho phép các em nghĩ đến món ăn thích nhất. Một phút thôi đấy nhé!

Cả lớp: !?!
1131

Cái Chết Trong Thang Máy



Thưa các bạn, đôi khi giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau chừng một sợi tóc. Chẳng ai có thể biết nó rõ hơn tôi. Nhưng, nếu có ông bạn nào lại hỏi tôi trong trường hợp phải giết người thì sao? Điều ấy tôi thấy cần phải trả lời nước đôi như thế này: Cái đó còn tùy theo trạng huống.

     Tôi cũng Chẳng cần phải giấu giếm làm gì: tôi đã giết một người, và trong cái hoàn cảnh đặc biệt ấy, tôi tự nhận thấy tôi đã hành động đúng với tất cả sự logic.

     Có điều khi nghĩ rằng mình có quyền giết hắn ta thì tôi đã hoàn toàn không tính gì đến những chuyện bất ngờ.

     Dạo đó tôi là tùy viên tại sứ quán của nước tôi ở Luân Đôn. Tất nhiên, mười năm về trước tôi rất bô trai và lại to con. Tôi thường có thói quen đi coi hát vào mỗi tối thứ sáu và khi vãn tuồng, quay trở lại Queens Gate - tôi cư ngụ tại khu vực đó - rồi đi lòng vòng một tua.

     Đêm Luân Đôn, không còn gì thoải mái hơn bằng cách thả bộ trên những đường phố rộng lớn và sạch sẽ. Trước khi trở về nhà, tôi không bao giờ quên ghé vào tửu quán Con ngựa điên, ở đó tôi có thể gặp đủ mọi hạng người vô công rồi nghề của cái thủ đô bốn mùa sương mù này. Tôi gọi một tách trà không phải cốt để uống mà chỉ để quan sát một cách thích thú những nhân vật điển hình Anh Cát Lợi đang ngồi trầm mặc trên quầy.

     Một đêm kia, trong lúc đang ngồi uống trà, bất chợt tôi thấy hiện ra từ trong bóng tối một trong những người đàn bà lộng lẫy nhất mà trong đời tôi chưa bao giờ được gặp.

     Với tư cách tùy viên sứ quán, tôi thường tiếp xúc với rất nhiều người đẹp: những vị phu nhân, những bà quận chúa, những ái nữ của các ông đại sứ thuộc đủ các quốc tịch, và đôi khi cả những nữ minh tinh nổi tiếng trên thế giới ; nhưng người đàn bà này lại có một nhan sắc cực kỳ, khiến cho trong giây phút tôi như ngây dại hẳn đi, và chỉ một chút xíu nữa, tôi đánh rơi tách trà xuống sàn.

     Tuy trong lúc say mê điên dại, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, hình như nàng đang có một tâm trạng thảng thốt.

     Thỉnh thoảng nàng lại nhìn ngang ngó dọc, như thể sợ hãi một kẻ nào đang rình rập đâu đây. Khuôn mặt trái xoan của nàng nhợt nhạt. Đôi mắt màu tử thạch anh của nàng như có một vùng bóng tối che phủ. Những ngón tay trắng nõn nà của nàng run rẩy nâng cái ly lên.

     Ví thử rằng tôi là dân Anh, có lẽ tôi cũng sẽ tỉnh bơ đi. Nhưng ác một nỗi tôi lại không phải là người Anh nên tôi không có hân hạnh để có được cái tính phớt tỉnh Ăng- lê như dân bản địa. Tôi không thể đành tâm nhìn một người đàn bà đẹp như thế gặp khó khăn. Thế là tôi lại gần nàng và lịch sự hỏi nàng xem tôi có thể giúp được gì.

     Thoạt đầu, nàng tỏ vẻ sợ hãi, nhưng sau khi đã tự chủ, nàng cám ơn tôi về sự giúp đỡ ấy. Tôi khuyên nàng hãy cứ bình tĩnh uống trà, rồi sau đó hãy nói cho tôi biết điều gì đã khiến nàng lo ngại.

     Trả tiền xong, chúng tôi đi ra phố. Với giọng nói run run, nàng kể cho tôi nghe câu chuyện của nàng. Nàng không thể nín lặng mãi được. Nàng hầu như đã kiệt sức và cần phải tìm chỗ bấu víu.

     Đã có thời gian nàng sống ở Mỹ. Sẽ lãng phí giấy mực và thậm chí vô ích để kể lể dài dòng về cuộc tình của nàng với một thằng cha căng chú kiết nào đó ở trên cái mảnh đất mà cứ mươi mười lăm phút lại xảy ra một vụ án mạng ấy. Nó, phải, chính nó, sau khi vớ được nàng, đã bám chặt lấy nàng ; dù hết sức vùng vẫy, nàng cũng không thể sao thoát ra khỏi những cánh tay bạch tuộc của nó.

     Nhưng rồi một dịp may đã đến, và người đàn bà trẻ đẹp kia đã tố cáo những hành vi tàn bạo của nó với nhà chức trách. Nó bị 7 năm tù và người đàn bà trốn sang nước Anh.

     Chỉ có điều rằng nó đã thề sẽ giết nàng sau khi mãn hạn tù. Và nàng biết rằng đó không phải là những lời đe dọa suông ; nó nói và nó sẽ làm. Luật Vendetta (trả thù), nàng đã từng chứng kiến.

     Đúng vào cái bữa tôi gặp nàng ở trong tửu quán Con ngựa điên thì nàng được tin nó tới Luân Đôn cùng hai đồng bọn.

     Tôi giải thích cho nàng hay rằng, nước Anh không phải là nước Mỹ ; ở đây người ta không bao giờ cho phép những tên cùng hung cực ác ấy có thể làm mưa làm gió, muốn giết ai thì giết.

     Nhưng nàng vẫn không tin.

     - Dầu cho có trốn vào trong nhà tù Sing Sing, chúng nó cũng sẽ cố tình phạm một tội ác nào đấy, để vào tù rồi giết mình, nàng nói.

     Nàng hoảng hốt thật sự và không dám trở về nhà. Nàng nói:

     - Suốt ngày hôm nay, có hai tên lạ mặt canh chừng ở gần nhà em.

     Thưa các bạn, tôi vừa xúc động vừa phẫn nộ. Như tôi đã nói ở trên, cách đây 10 năm, tôi hãy còn trẻ, hùng tâm tráng khí còn đầy, hễ thấy sự bất bằng là xắn tay áo lên, nhào vô can thiệp liền, huống hồ nạn nhân lại là một người đẹp.

     Đầu óc tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Tôi bảo sẽ đưa nàng về văn phòng sứ quán của tôi ; nàng có thể tạm nghỉ ở đấy một đêm, trong phòng họp của chúng tôi và, sáng hôm sau, tôi sẽ trù liệu những biện pháp để bảo đảm an toàn cho nàng.

     Sau một hồi tính toán, nàng đồng ý. Tôi gọi tắc xi đưa chúng tôi về sứ quán. Tôi mở cửa dẫn nàng vào. Tôi bật đèn ở phòng họp, kéo cái canapé ra phía trước lò sưởi điện. Và chính vào lúc tôi sắp sửa từ giã nàng thì sự việc xảy ra.

     Lúc đó chúng tôi đang đứng ở giữa phòng. Chợt có một tiếng nổ chát chúa ; cửa kính ở cuối phòng vỡ tan ra từng mảnh và viên đạn nằm gọn ở trong tường. Cũng may nàng không hề hấn gì.

     Không chậm trễ một giây, tôi tắt đèn và nắm tay nàng lôi thẳng một mạch ra khỏi sứ quán và, nhảy đại lên một cái tắc xi, đưa nàng tới nhà một người bà con của tôi. Trong lúc ngồi trên xe, nàng nói:

     - Anh thấy đó, vô ích thôi! Nó sẽ giết em! Bọn chúng nó sẽ không buông tha em đâu! Bữa nay nó bắn hụt, nhưng mai nó sẽ bắn trúng.

     - Cô đừng có nghĩ quẩn, tôi đáp. Phải can đảm lên chứ! Bây giờ là an toàn một trăm phần trăm. Cô có biết cái tên khốn kiếp ấy ở đâu không? Nếu biết thì bảo tôi để tôi trị cho nó một trận.

     Mới đầu nàng từ chối không cho tôi biết, nhưng khi đến nhà cô em tôi thì nàng cảm thấy hơi an tâm bèn nói:

     - Nó ở khách sạn Phượng Hoàng, khu Picadilly, lầu 2, phòng số 15. Nhưng em van anh, đừng có tới đó làm gì! Nó nguy hiểm lắm, lại có thêm hai đứa nữa, mặt mũi giống như đười ươi.

     Thà rằng nàng đừng tiết lộ địa chỉ của nó, tất nhiên tôi sẽ vô kế khả thi. Nhưng một khi đã biết rồi, không lẽ tôi lại làm ngơ. Thế là cái máu yêng hùng của tôi sôi lên sùng sục. Tôi quên hẳn cái tư cách nhân viên ngoại giao của tôi : phải tránh né tất cả mọi xì căng đan vì có khi, chỉ cần một sự rắc rối nhỏ nhặt do tôi gây ra là sẽ trở thành một biến cố ngoại giao giữa hai nước.

     Sau khi giao phó nàng cho cô em họ, tôi lao tới cái khách sạn đó, mặc dù nàng hết sức khuyên can.

     Đó là một khách sạn loại trung bình, nằm lọt thỏm giữa những tòa building đồ sộ. Tôi đẩy cái cửa quay, bước vào và đảo mắt nhìn người gác đêm ; nhưng căn phòng trống vắng, không có một ai.

     Khi nhìn thấy thang máy nơi hậu phòng, tôi lặng lẽ tiến vào.

     Đến lầu 2, trong lúc tôi bước ra thì ở hành lang, một cánh cửa, đối diện với thang máy, hé mở. Đó chính là phòng số 15. Một người đàn ông ăn vận chỉnh tề xuất hiện. Bộ quần áo đâu có tạo ra được ông thầy tu. Đúng thế! Chỉ cần nhìn cái bản mặt cô hồn, tôi cũng biết chính là hắn, kẻ tôi đang tìm kiếm.

     Tiên hạ thủ vi cường, tôi đấm ngay một phát vào giữa mặt hắn, và khi hắn loạng choạng dựa vào tường để cho khỏi ngã, tôi sử dụng một thế nhu đạo khóa tay hắn lại. Rồi tôi áp dụng một thứ ngôn ngữ bẩn thỉu nhất mà tôi chợt nhớ ra để bảo với hắn rằng: nếu hắn còn tiếp tục hành hạ người đàn bà ấy, một phụ nữ chân yếu tay mềm mà tôi đã hứa bảo vệ, thì tôi sẽ giết hắn như một con chó ghẻ.

     Sau đó, tôi phủi áo và buông tha cho hắn.

     Được trả lại tự do, nó lẹ làng như một con rắn, luồn vào trong thang máy. Hắn kéo cái cửa ngoài lại, và khi cảm thấy mình đã được an toàn sau khung sắt, nó bèn cười gằn rồi cất tiếng sủa:

     - Hừ! Đồ chó đẻ! Đồ tiện dân! Đồ trôi sông lạc chợ! Bộ mày tưởng mày hay hóm lắm đấy hả? Được rồi, mày cứ việc quay trở lại với con điếm thối tha kia đi, và mày cũng nên bảo cho nó biết trước rằng, nhất định tao sẽ thanh toán được nó. Đó là luật Vendetta. Mày đã nghe rõ chưa? Khi tao muốn, tao sẽ có cách. Có thể ngày mai, và cũng có thể tháng sau. Nó có thể chuồn đi bất cứ đâu tùy thích, nhưng tao sẽ bám sát nó. Nó sẽ không bao giờ biết là khi nào thì xảy ra sự việc đâu. Có điều nó phải xảy ra, vậy thôi. Chào, đồ chó đẻ!

     Cái thằng khốn kiếp ấy cười vào mũi tôi rồi đóng cái cửa sắt bên trong. Tôi sôi tiết lên và làm một cử chỉ bất ngờ: cầm ngược cái ba- toong, tôi thọc qua khung cửa sắt. Thực tâm, tôi chỉ muốn đập vào mặt hắn. Nhưng tôi đánh hụt, và cái cán cong của cái ba- toong ngoặc luôn vào cổ hắn, và khi hắn bấm nút để cho thang máy hạ xuống thì lại đúng vào lúc tôi kéo được cái đầu của hắn ra phía trước.

     Cổ hắn bị kẹt giữa sàn thang máy và sàn hành lang. Thang máy trong lúc vút xuống đã kẹp nát bét đầu nó như một trái dưa hấu, đồng thời cái cán ba- toong của tôi cũng gãy vụn.

     Sống lưng tôi lạnh toát. Tôi vội phóng nhanh xuống cầu thang. Hậu phòng vẫn vắng lặng và kế bên, cái thang máy, bên trong có một cái xác cụt đầu, đã trở về vị trí cũ.

     Tôi bước vội đến cửa quay và ra khỏi khách sạn. Chẳng có một ai trông thấy tôi. Rồi tôi lặng lẽ trở về nhà.

     Sáng hôm sau, tôi đọc thấy trong các báo mẩu tin về "tai nạn" xảy ra đêm qua tại khách sạn Phượng Hoàng ; phía dưới bản tin có vài dòng cáo bạch khẩn thiết khuyên mọi người hãy đóng chặt hai cánh cửa thang máy lại trước khi bấm nút.

     Bây giờ, như các bạn thấy đó, định mệnh quả thật là kỳ lạ! Vì cũng chính trong ngày hôm ấy, một vị đạo cao đức trọng ngụ ở một căn nhà áp phía sau sứ quán đã tới xin lỗi chúng tôi: trong lúc lau khẩu súng bắn chim, ông ta đã vô ý để cho đạn nổ làm vỡ mất một khung cửa kính của sứ quán.

     Nếu súng của ông ta không bị cướp cò thì đâu có nên chuyện.

     Một sự ngẫu nhiên, có phải không, thưa các bạn?
812

Nói với con về...tình yêu!



Nói với con về...tình yêu!





Có thể khi đọc những dòng chữ này, con gái của bố lại cười khúc khích, rồi nghĩ thầm sao hôm nay bố lại lên lớp con về cái chuyện của thanh niên thế nhỉ?". Con đừng vội cười nhé. Chuyện yêu đương đâu phải chỉ chuyện của các con? Tuy con gái bố đã 19 tuổi rồi, nhưng con đừng tưởng như vậy là con đã lớn, đã có thể vững bước vào đời, không sai lầm, không vấp ngã.
Tất nhiên bố có thể nói chuyện trực tiếp với con. Song đây là chuyện tế nhị, vì vậy bố quyết định tâm sự cùng con bằng trang viết này. Có thể như vậy hay hơn đối với cả bố và con.


Bố thật sự phải suy nghĩ nhiều về chuyện này kể từ hôm con dẫn Hùng, bạn trai con về nhà và nói với bố rằng các con đã yêu nhau gần một năm nay. Khi bố nói rằng con bước vào tình yêu hơi sớm, bởi trước mắt con là một chặng đường dài của học tập và phấn đấu. Bố còn nhớ con đã cười và nói lại một câu gần như con đã đọc trong một cuốn sách nào đó rằng "Bố ơi, tình yêu cho chúng ta sức mạnh, sẽ giúp ta học tập tốt hơn, phấn đâu vươn lên nhiều hơn để xứng đáng với tình yêu". Con nói có phần đúng, song điều đó đúng với những người đã trưởng thành, đã có hiểu biết cuộc đời, đã biết thế nào là tình yêu và biết làm chủ bản thân, có cuộc sống độc lập con ạ. Con đã cãi lại bố rằng "ngày trước bố và mẹ cũng yêu nhau từ khi học năm thứ nhất đấy thôi". Ðúng, bố mẹ gặp nhau và có tình cảm với nhau từ năm học thứ nhất. Song con không hiểu tình yêu của bố mẹ ngày trước như thế nào đâu. Có lần con cũng được đọc nhật ký của bố mẹ rồi đấy, bố còn nhớ nét mặt con lúc ấy rất xúc động. Con còn nói đùa với mẹ rằng "Bố mẹ ngày xưa lãng mạn thật, hơn cả thanh niên bây giờ". Con có biết không, chính cái sự lãng mạn ấy mà tình yêu của bố mẹ mới được bền lâu, bố mẹ mới cùng nhau chia xẻ bao năm tháng khó khăn của ngày đầu mới ra trường chưa xin được việc. Chính sự lãng mạn ấy mà tình yêu của bố mẹ mới đơm hoa kết trái, mới có con ra đời như kết quả chờ mong.


Vậy mà con và Hùng đã yêu nhau như thế nào? Có thể người ta nói đúng rằng "tình yêu có đôi mắt mù lòa". Con bảo Hùng là người con tin tưởng nhất, anh ta chiều chuộng con, không từ chối con một điều gì. Nhưng con có thấy cái cung cách Hùng đến nhà mình không? Cậu tạ chào bố bằng cái gật đầu, rồi ngồi bắc chân chữ ngũ hút thuốc lá. Với mái tóc hung hung mới nhuộm, cậu ta ăn diện quá mức, mà lại không lịch sự chút nào. Một cậu sinh viên năm thứ nhất đã làm gì ra tiền mà cậu ta đi xe máy vè vè, cổ lại lủng lẳng xiềng vàng, lắc bạc. Cậu ta không để ý rằng bố đang làm việc, mà lại tự tiện bật vô tuyến lên xem bình luận bóng đá. Con bảo cậu ấy là sinh viên, vậy mà khi bố hỏi cậu ấy học trường nào, cậu ấy bảo học khoa Văn trường Ðại học Thủy lợi! Trường Thủy lợi mà cũng mới có khoa Văn hay sao con? Bố chỉ mong con nhìn nhận lại người mà con nói là yêu thương đi. Con người ta quý nhất ở sự hiểu biết, ở tư cách đạo đức ở sự kiên trì vươn lên trong cuộc sống, ở sự cần cù lao động và trân trọng tình người. Anh ấy có đủ tư cách là chỗ dựa tinh thần cho con suốt cả cuộc đời hay không?


Khi con xin phép bố mẹ đi chơi với Hùng, bố mẹ đã tôn trọng con và đồng ý. Nhưng khi con đi rồi, mẹ con lại lo lắng. Bố cũng lo, nhưng bố đã trấn an mẹ con. Một mặt bố tin con vì con là con gái của bố, con không đến nỗi dại khờ đâu, cũng là sinh viên rồi cơ mà. Tin thi tin vậy mà vẫn không yên tâm.


Còn một điều này, bố đắn đo mãi rồi quyết định nói với con. Ðể tình yêu mãi mãi là điều thiêng liêng, các con phải biết giữ gìn khoảng cách. Có thể con lại bảo bố là cổ hủ, lạc hậu, là phong kiến. Song bố dám khẳng định với con một điều rằng không một người đàn ông nào muốn cưới một cô gái dễ dãi, buông thả về làm vợ.


Bố không cấm con yêu, bởi bố cũng hiểu tình yêu như một dòng nước lũ, nó có thể tràn vỡ nếu ai có ý định đắp đập ngăn sông Bố chỉ muốn con thật sự suy nghĩ những điều bố nói với con về tình yêu, về người yêu của con. Bố tin con gái bố hiểu điều bố nói, bởi bố nói với con bằng kinh nghiệm của một người lớn tuổi, một người chỉ mong con được hạnh phúc.

529

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2009

Đứa Con Ngoan



Người vợ nheo mắt, liếc chồng, vẻ hân hoan hiện ra mặt. Người chồng gật gù, thích chí, tủm tỉm cười luôn. Thằng con lên bảy, sung sướng ngồi trên vế cha.

Con nói biết phải không? Được. Đâu con cắt nghĩa ba má nghe và phải có thí dụ đàng hoàng. Ba sẽ thưởng cho đôi giầy mới và dắt con đi coi chớp bóng.

Thằng con lễ phép thưa:

Thưa ba má, con vừa kể: Tay để rờ mó như rờ bình nước xem nóng hay nguội, mó bánh mì xem cứng hay mềm.

Hay! Rồi sao nữa?

Dạ, tay để cầm, như cầm các đồ vật thường ngày. Thầy con dạy hôm qua rằng: Nếu ai trói hai tay trò trong một ngày, trò có chịu được không? Không thể được, vì làm sao cầm chén đũa ăn cơm?

Người vợ vói tay bồng đứa con ngoan, khen:

Giỏi lắm! Con tôi giỏi lắm. Học đâu nhớ đó.

Người chồng họa theo:

Thật giống tôi như đúc. Hồi nhỏ tôi cũng vậy. Rồi còn gì nữa con?

Thằng nhỏ hớn hở:

Dạ, tay để viết như con đi học mỗi ngày, như ba đi làm việc, má viết thư chôngoại.

Được, còn hay hết?

Dạ còn nữa. Dạ... Tay để gãi trong mình chỗ nàôngứa, để đấm lưng như con đấm lưng ba.

Người cha vụt cười vang, vỗ đầu con:

Thằng này hóm lắm, khéo nịnh để dâng công.

Người vợ liếc chồng tủm tỉm:

Tôi đã bảo con tôi mà. Có khác tôi không?

Ông chồng hóm hỉnh:

Ừ! Thì tôi có cãi đâu?

Thằng con có thì giờ tìm tòi thêm, kể tiếp:

Thưa ba má, tay để đánh đập, để bạt tai như hôm trước có hai ông nào đánh lộn ngoài phố.

A! Thằng nhớ dai nhỉ! Hay! Ba khen con. Đáng thưởng đôi giày lắm. Còn gì nữa không?

Dạ tay để đánh đàn như cô Hai ở kế bên nhà mình, đàn tối ngày làm ba ngủ trưa không được.

Người vợ bật cười, nựng:

Con tôi ngoan quá, giỏi quá. Má sẽ may cho bộ đồ mới.

Người chồng tranh công:

Nếu không có tôi răn dạy nó thì làm sao nên được? Sao nữa con?

Dạ, tay để lạy.

À! Hay! Trúng. Nhưng ba biết con sẽ nói: Lạy ông bà, cúng lạy ngày Tết, ngày giỗ, vậy con tìm một thí dụ khác mới tài.

Thằng bé nuốt nước bọt, mắt láo liên. Người chồng nhìn vợ như muốn khoe câu đố mẹo "Sâu sắc" của mình rồi nhìn con, chờ.

Một giây, hai giây. Nó hết bối rối, mắt sáng lên vỗ tay cười:

Con biết rồi. Tay để lạy chị vú trong buồng, tối hôm qua và nói: "Em đừng la lớn tội nghiệp anh".


2852

Bài đăng phổ biến