Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2009

Bữa ăn trên cỏ



Khi tiếng chuông nhà thờ ngừng đổ, mọi thứ tiếng động giữa lòng đường bỗng chốc dâng cao. Tạp nhạp, trôi chảy, không gián đoạn. Hai cây kim đồng hồ trên nóc giáo đường chuyển dịch, một kiếm ngắn một kiếm dài tách rời hẳn và mặt trời giữa ngọ như theo đó mà đứng bóng, ngập lụt sắc lửa vàng cháy. Những chuyến xe buýt không ngừng thả khách xuống và đàn bồ câu thì hầu như lúc nào cũng tụ tập đông đảo trước khoảng sân rộng dẫn vào chốn tôn nghiêm.

Mười hai giờ năm, mười hai giờ bảy, mười hai giờ mười phút. Gió làm bay những mái tóc vàng đứng đợi đèn đường chuyển màu. Làm không khí đậm mùi nước đái những cổ xe ngựa lọc cọc chở du khách đi về phía cuối thành cổ, ở đó khẩu đại bác của mấy thế kỷ trước vẫn không hề hoen rỉ, xanh bóng màu đồng nhô ra khỏi pháo tháp như muốn thách đố một điều gì trong câm lặng. Sông St-Laurent chạy một đường viền sáng ngời, cắt rõ biên giới giữa bụi bặm nhiệt náo với từng không lặng lờ một màu xanh chẳng gợn bóng mây.

"Làm phiền anh chụp cho bọn tôi một tấm ảnh." Người thanh niên trao cái máy nhỏ và nắm tay cô bạn gái đi thụt lùi. "Có thấy bức tượng ở đàng sau không? Cái nút đỏ ấy, chỉ việc bấm nhẹ là xong." Hai mái đầu tựa vào nhau, người con gái vuốt lại tóc và trong ống kính bức tượng người cầm gươm mình mẩy đen đúa hoen ố cả cứt chim. "Cám ơn." Họ đồng loạt nói. Người con gái đưa bàn tay che ngang trán như kiểu chào của lính, đôi mắt nheo: "Họ bảo nhà thờ ấy linh thiêng lắm phải không?" Cô đeo ba-lô sau lưng và tuồng như cô đến từ một nơi chốn khác, trước mặt còn dài những ngày nghỉ hè. "Tôi cũng không rõ. Có thể là như vậy." Họ gửi lại hai nụ cười khác nhau rồi tay trong tay níu kéo đi xăm xăm, đội nắng tới lãnh địa của Chúa.

Thoảng trong gió có mùi hương quen, gần gũi:

"Xin lỗi, tôi đến trễ. Khiếp! Hôm nay là ngày gì vậy cà?"

"Thứ sáu, nhưng không phải mười ba."

"Có lễ lạc gì không? Người đâu mà đông thế!"

Anne nhìn dớn dác, cuối cùng cô chỉ tay về một bãi cỏ xanh nằm trên đồi thấp. "Lại đó đi." Anne mặc chiếc váy rộng và gió như có cớ để đùa nghịch: khi thổi phồng nó lên, khi dán chặt vào đôi chân vướng víu. Thuốc ngừa đổ mồ hôi nách thơm thứ mùi hương nồng đậm, ngửi thấy ngầy ngật như bị say nắng.

"Tôi có mua bánh mì thịt nguội và luôn cả nước ngọt. Nhưng đó không phải là lý do khiến tôi đến trễ."

"Tôi đợi không mấy lâu, tuy vậy tôi ngỡ là mình đã nghe lầm điểm hẹn. Nhà thờ. Hình như gần đây còn có một cái giáo đường khác?"

"Ừ, nhưng nó không cổ xưa và tiếng tăm như cái này."

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ thì vẫn hơn."

"Cũng tùy. Đông đúc thì dễ hòa lẫn vào. Sao, mọi chuyện có gì thay đổi không?"

Anne hỏi trong khi kề sát đầu vào để hôn. Hơi thở nóng, như người đang nhuốm bệnh; và thứ kẹo cao-su mà cô đang nhai mùi vị hệt như thuốc xi-rô trị cảm cúm ho hen.

"Hiện tại thì chẳng có gì đổi thay."

"Con Kathy hôm nay nhác chơi. Từ nhà trẻ đi ra, nhìn lui vẫn thấy nó ngoái trông. Mặt buồn bã, tội nghiệp."

"Nó mấy tuổi rồi nhỉ?"

"Bốn."

"Sách vở y khoa bảo là con nít phải tới mười tuổi mới ý thức được cái chết. Sự sợ hãi cũng như nỗi buồn khổ khi thiếu thốn."

"Nói vậy nghĩa là sao?"

"Là bốn tuổi thì nó có hề băn khoăn vì không thấy mặt cha?"

"Tôi không biết. Hình ảnh những thằng đàn ông đến đón con ở nhà trẻ chắc có gieo vô trí óc nó một dấu hỏi... Tôi cũng vậy, tôi cần có một người đàn ông sống ở trong nhà. Bóng đèn bị cháy, bồn rửa chén bị nghẹt, đêm hôm trái gió trở trời... mấy cái lẻ tẻ đó cũng làm phiền mình lắm."

Khá đông người đang chiếm cứ nằm ngồi trên bãi cỏ. Mình trần hoặc xiêm áo chỉnh tề. Ăn uống, hút thuốc, hôn nhau, chuyện trò hoặc nằm ngủ dang cả tay chân. Tuy vậy, đó là những nơi ngập nắng. Anne kiếm không mấy khó một bóng mát và thật kỳ lạ, bóng mát nào cũng ế ẩm chuyện "lấn đất dành dân." Cô lấy từ túi ny-lông ra tờ nhật báo, khom mình trải rộng nó trên cỏ. Áo khoét rộng cổ cho hợp với thời tiết và thấp thoáng ở đằng sau những hạt nốt ruồi vẫn còn nằm nguyên vị trí cũ. Ngực Anne không lớn và có thể con Kathy không hề được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ. Ngực Anne nhỏ và điều đó như làm cô mang ngầm một nét quyến rũ riêng tây. Săn chắc như một thiếu nữ chập chững đi tới cánh cửa dậy thì.

"Công việc như thế nào?" Anne hỏi khi cô bày thức ăn trên mặt báo. Tờ Journal de Montréal bao giờ cũng trình bày lem nhem những co chữ lộn xộn và nó có khối người đọc bởi chuyên đăng tải những chuyện bậy bạ. Cha ngủ với con gái. Mẹ ngủ với con trai. Đại loại thế. Tuy vậy, hiểu cho tường tận những chuyện lắc léo kia thì vốn liếng Pháp văn cũng không đến nổi tồi. Chỗ nào còn ẩn khuất chưa thấu đáo thì cứ hoa tay múa chân cũng có ngày sáng mắt trước mọi thứ. Luân thường đạo lý, luật pháp và luật sống. Những cái đó tựa như động từ bất quy tắc mà mỗi người có một cách chia khác nhau, tùy nghi loay hoay sử dụng.

"Công việc? Vẫn vậy. Mệt mề như một cổ máy thiếu xăng dầu."

"Can đảm lên. Mình không có sự lựa chọn nào khác. Đúng không? Ăn cái này đi, tôi mua ở cửa hiệu chuyên nhập thực phẩm từ bên Pháp qua."

Khúc bánh mì dai, mùi mù-tạt nồng cay và những con ruồi từ đâu sớm làm kẻ thăm viếng. Có con lì lợm xua không bay. Có con từ tốn bò chậm rãi từ cổ chân lên tuốt đầu gối để trần của Anne. Những sợi lông măng vàng óng như nhụy phấn hoa, và ở thế ngồi bất cẩn kia gió có thể bất chợt thổi bay những gì vướng viú đang lay động trước mắt.

"Chiếc váy này mua tháng trước mà giờ này coi bộ mặc muốn chật rồi."

"Anne mệt không?"

"Đâu phải lần đầu. Lâu lâu hơi nhón người một tí thôi. Và hồi hộp."

Anne uống một ngụm nước ngọt. Trán cô ta lấm tấm mồ hôi, như lon nước cam ứa từng giọt nước ngoài vỏ nhôm mát lạnh.

"Hôm qua lại đụng mặt bố con Kathy, thật là phiền nhiễu!"

"Chuyện gì đã xẩy ra?"

"Chẳng có gì. Tuy nhiên tôi nghĩ là nên dọn đi một nơi khác. Cho khuất mắt!"

Mắt Anne nhìn xuống con đường đổ xuôi bên hông nhà thờ. Đường lát gạch nhấp nhô, phía trên căng tấm biểu ngữ quảng cáo vở kịch "L’enfer, c’est les autres." Tấm vải màu vàng cũng nhấp nhô căng gió, hắt xuống đất vằn vện từng vệt đen di động.

"Đôi lúc nằm ôm con Kathy giữa đêm khuya, tôi thấy căn phòng rộng thoáng như một cánh đồng. Tôi yếu đuối và tôi nhớ tới bạn rất nhiều. Nhà thờ kia rất linh, người ta bảo thế, có lẽ một lúc nào đó chúng ta nên bước vào cầu xin một điều gì chăng?"

"Trước đó hãy lựa sáu con số mà mua cái vé số. Cầu xin? Những đứa giàu có thường là những tên chẳng thèm tin chuyện dị đoan, huyền bí."

"Nói cũng đúng. Nhưng mà trước khi đời lên hương, bọn đó hẳn phải sống qua những ngày hoang tưởng như chúng ta. Này, hè tới bọn mình chính thức ở chung với nhau nhé?"

Anne lật tìm từng trang báo, sau cùng thì cô rút lên một tờ. Có nhiều vòng tròn làm dấu bằng viết đỏ, Anne cúi đầu đọc sau khi cô nghĩ ô quảng cáo ấy coi bộ bắt mắt nhất: "Ba phòng rưỡi, nhà mới sửa, có bếp điện và tủ lạnh, gần trường học, gần bệnh viện, gần métro Place des Arts. Giá bốn trăm chín lăm đồng một tháng. Xin điện thoại sau sáu giờ, số bla, bla, bla... Ngó được quá đi chứ?"

Anne đổi thế ngồi, mặt thoáng nhăn nhó. Một tay xoa nhẹ lên bụng và tay còn lại ném những vụn bánh mì ra xa cho chim ăn:

"Sao không nói gì cả vậy?"

"Tôi đã chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn không tránh khỏi nhiều lo ngại."

"Về điều gì? Trong số báo này tôi đọc thấy một câu khá hay đăng ở mục trả lời những rối rắm của đọc giả: ‘Người ta sẽ đi suông sẻ trên đường nếu trong tâm họ sắt son một lòng thương yêu’."

Anne vuốt lại đầu tóc, cởi vòng cao su tròng ở cổ tay để cúi mặt cột túm sau ót thành một cái đuôi ngựa.

"Mai tôi đi nhuộm nó thành màu đen nhé?"

"Để làm gì? Hớt ngắn cho mát mẻ thì có lý hơn."

"Ừ thì hớt ngắn và sau đó nhuộm đen mun cho hai đứa mình giống nhau. Màu đen e là màu mạnh nhất trong các màu. Chị tôi dạo đó ở với thằng John, sinh đứa nhỏ ra da dẻ đen bóng. Tôi nói với bả, sao kỳ vậy cà, chị chế sữa vô ly cà phê thì cái chất nước đen kia phải đổi màu chứ? Một đứa bé có làn da màu cà-phê sữa thì chắc là ngó đặng hơn. Đưa tay cho tôi. Có thấy gì không?"

Bụng Anne tròn, cứng. Như một kẻ háu ăn đang ngồi thở dốc vì bội thực. Cách một lớp vải mỏng nhưng có thể biết được đâu là vị trí vết sẹo nằm vắt ngang. Con Kathy chào đời bằng lối đó. Bốn năm rồi, những đường kim mũi chỉ đã chìm dấu và tương lai, trên khoảng da bụng căng láng kia người ta sẽ không nương tay cầm dao rạch thêm một lỗ hổng mới. Chẳng còn hạ sách nào khác. Anne cho biết là lần này cô sẽ yêu cầu bác sĩ cắt bỏ buồng trứng luôn. Cho tiện việc sổ sách.

"Mai tôi đi bệnh viện L’enfant de Jesus. Có bận việc gì không? Sau đó chạy ra chợ trời Namur mua sẵn ít đồ cho đứa nhỏ. Chị tôi nói, nôi giường ở đó bán rẻ như bèo. Thượng vàng hạ cám, thứ gì cũng ê hề mà giá cả không có thiên lôi như chỗ khác."

"Tôi không đi được. Cuối tuần, việc vàng lúc nào cũng ngập đầu."

"Cái gì đây?"

"Anne cất đi, cho có mà sắm sửa."

Phong bì màu trắng, Anne đón nhận và ngắm nghía. Ở trên góc in cái logo của nhà hàng, đỏ loét như một vết thương mới đổ máu. Chỉ một vòng tròn nhỏ, người vẽ đã nhét chật vào trong đó những long, những phụng, những vân, những nhật, những nguyệt, nhửng sơn, những thủy. Cái phong bì khá lớn, nhưng ngược lại, nó đựng lỏng lẻo vài tờ giấy bạc. Chỉ vài tờ, xộc xệch, vậy mà nó đã cướp đi khá nhiều sinh lực, sinh thú. Lao động tại sao lại gọi là vinh quang?

"Cám ơn."

"Tôi trở về lại với công việc nhé?"

"Chia tay rồi sao?"

Đồng hồ trên nóc giáo đường chỉ tới số một. Thời giờ thì bao giờ cũng có ở đó sự khó hiểu. Đôi khi nó dậm chân tại chỗ, một vài lúc nó tròng đôi hia bảy dặm vào, thoáng sáng, thoáng trưa và màn đêm đổ ập tới trong ngờ vực.

"Xong việc khoảng mấy giờ? Để tôi biết mà gửi con Kathy sang nhà bà chị. Nhớ không, đã một tuần rồi mình chưa hề làm tình với nhau."

"Tôi không rõ. Có gì tôi gọi điện thoại cho hay."

Anne đứng lên sau khi thu dọn các thứ trên cỏ.

"Dạo này ốm quá, da xanh. Tôi vẫn ngỡ là làm trong nhà hàng Tàu thì tha hồ mà ăn những thứ hợp khẩu vị."

Triền cỏ đổ xuôi xuống lề xi-măng. Thưa thớt dần người ngồi. Chim rỉa lông dưới nắng và dãy thùng rác đầy kè những con ruồi lên xuống.

"Để hồi nào lại tôi hớt tóc cho, trông xác xơ quá!"

Hai đứa đứng ôm nhau hồi lâu. Như dưới chân có hành lý và ngoài sân ga tàu đang hú còi đòi băng mình khỏi bến đậu.

"Nè, tôi có một yêu cầu, cho tôi được quyền đặt tên đứa nhỏ nhé?"

"Tại sao không? Anne đã từng cười đùa về cái tên tôi mang. Những Van, những Truc, những Son..."

Bên kia đường, dưới thềm bóng mát của một cơ sở bán bảo hiểm nhân mạng có người quấn vải trắng toàn thân, tóc tai mặt mày bôi trắng xóa màu vôi, tay mang găng trắng, chân đi giày trắng và chiếc nón đen đặt giữa lối đi đựng đầy những đồng tiền. Người giả thiên thần kia đứng yên như bức thạch cao, mắt nhắm nghiền, hai tay vòng ra ôm hư không, đày đọa, đau khổ, như thể thiên đường đã mất dấu. Anne xuýt xoa và sự xúc động lộ ra trên mặt, y như đám đông hiếu kỳ đang vây quanh cái xác ướp màu trắng. Ở gần đó có người đàn ông rậm râu thổi kèn đồng ai oán khúc nhạc "Je t’aime, moi non plus." Trước mặt ông ta cũng có chiếc nón nhưng nó hứng chẳng nhiều nhặng gì ơn mưa móc của bá tánh. Mặt đỏ ké, ông không ngớt phồng má trợn mắt. Cho hay ở đời có khi năng nổ lao động cho lắm cũng không bằng kẻ đứng yên chây lười chẳng buồn cử động.

"Một ngày đẹp trời nào đó tụi mình dắt nhau đi tới tòa thị chính nhé?"

"Tòa thị chính?"

"Để ký với nhau một tờ giấy cho có vẻ danh chính ngôn thuận. Chị tôi luôn sẵn lòng để đóng vai một nhân chứng."

"Ừ. Một ngày đẹp trời nào đó."

"Nhớ nhé. Nãy giờ Chúa đã nghe hết những bàn tính của đôi ta."

"Thôi, tạm biệt."

"Bai. Hãy điện thoại cho tôi."

Đâu lưng nhau, mỗi đứa có một lối đi khác nhau. Điều ấy liệu Chúa có thấy không? Anne hẹn gặp trước nhà thờ, cô nói trong điện thoại: Bởi vì chỗ ấy không xa nhà hàng Orient. Không xa, nhưng phải mười phút để lội bộ, để lòn lách ở những lối đi gọi là đường chim bay. Một giờ mười lăm, con chim về đậu đúng tổ.

"Nị đi đâu nãy giờ không thấy?"

Thằng A Hính hỏi với cây tăm tre nhúc nhích nơi cửa miệng.

"Có biết là hôm nay một trăm hai chục mạng người sẽ ngồi đầy ở đây để ăn mừng đám cưới không?"

"Biết. Tôi sẽ chạy bàn mệt xỉu. Tôi sẽ là con gà mắc đẻ cho tới khuya."

"Biết vậy là tốt. Bà già có điện thoại lại đó. Hỏi thăm bả một tiếng rồi nhào lui sau bếp phụ ngộ một tay."

A Hính có dáng vẻ như một thằng tài tử Hồng-kông. Một đứa đóng vai công tử ở Thượng-hải chứ không phải là tên sát thủ xã hội đen gói dao trong tờ nhật trình bạ ai cũng rút ra chém. Bởi thế nói chuyện với hắn ‘được’ hơn là tám thằng đàn ông mặt mày bặm trợn ở trong quán. Được thêm điều nữa, hắn giỏi tiếng Việt nhất bọn và đôi khi nghe hắn nói nhiều câu lấn cấn thiệt đã ngứa cái lỗ tai.

Điện thoại nằm sau quầy rượu. Màu nhựa đen bóng mỡ màng, nhấc lên để nói chuyện có lúc thơm lừng mùi tương tầu xì.

"Má hả? Con đây."

"Hồi nãy má gọi mà con đi đâu thằng Hính cũng không biết?"

"Con đi đánh vé số. Nhờ trời, đánh cầu may. Má gọi để nói chuyện chi?"

"Ừ, bà Tâm mới chết hôm qua. Má tính nói con đưa cho má ít nhiều đặng có mà đi phúng điếu người ta. Thiệt tội, mới đó mà đã ra người thiên cổ! Bà Tâm chỉ bằng tuổi má chứ đã già nua chi cho cam!"

"Bao nhiêu thì đủ hả má?"

"Má cũng không rành. Con cứ cho má xin một trăm đi. Chao, tháng tới lại còn phải tốn tiền đám cưới cho con gái bà Sáu nữa mới khổ chớ!"

"Tối nay ở đây người ta có đặt tiệc cưới. Tôm cua cá mực ê hề, má ưa ăn thứ gì để con gói một ít ‘tả páo’ về cho má ăn."

"Í, thôi khỏi. Tuần nay má ăn chay. Má đi chùa làm công quả. Má niệm Phật cho hương hồn bà Tâm sớm thong dong miền cực lạc."

"Má này..."

"Hả?"

"A Hính nó gặp chuyện phiền não không biết con có giúp nó được không?"

"Giúp được thì nên lắm, trong khả năng của mình. Hắn chẳng từng nói với con là anh em như thủ túc bạn bè như y phục đó sao?"

"Hắn có đứa bạn gái lỡ mang bầu, con hỏi có chắc là con của nị không? Và con xúi hắn biểu đem đi phá cho yên thân."

"Mô Phật. Tổ cha mi. Ai đời lại tâm xà đi làm quân sư kiểu đó. Mà cái thằng Hính nữa, ngó nó hiền lành vậy mà. Thiệt là quá tay quá chân!"

"Vậy chứ theo má thì làm sao đây? Quất ngựa truy phong thì chắc không xong rồi. Con nhỏ kia là đầm đó má. Mắt xanh mũi lõ da trắng tóc vàng, má có ưa có đứa con dâu như vậy không?"

"Chao, thiệt là nghiệt. Biểu thằng Hính cho nó ít tiền để tự mình chu toàn việc sanh nở thì có đặng không?"

"Biết đưa bao nhiêu tiền mới gọi là thanh thoả? Chưa kể con nhỏ kia đòi ra tòa làm giấy hôn thú nữa."

"Thôi, má mệt lắm. Nghe chuyện thanh niên trai tráng bọn bây tao thiệt không hiểu. Nói thằng Hính liệu ăn chay niệm Phật là vừa."

Điện thoại buông xuống vị trí cũ. Chiếc quạt trần quay rã rời xua không nổi mùi nhựa đường xông vào. Ở sau bếp tiếng động dao thớt chẳng ngừng ta thán nhịp điệu cách khoảng. Ông Pạt phụ bếp vẫn còn yêu đời chu mỏ huýt gió bài "Máu nhuộm bãi Thượng hải."

"Hính à, bà già ngộ có chuyện cần. Nị cho ngộ mượn đỡ một trăm."

"Cái gì? Mượn tiền nữa à? Vậy tám chục hồi sáng tiêu vào việc gì rồi?"

"Tiêu việc gì à? Ngộ mua thuốc mọc tóc a tài lũ. Có thấy tóc ngộ đang sói không?"

"Cạo trọc đi, rồi làm Thiếu-lâm trường hận."

Ông Pạt thôi huýt gió, ông với ly nước gần đó để ‘dậm xà’. Trà thấm giọng, ông đùn cả dao cả thớt cả xương cả thịt qua:

"Chặt đi. Trảm hết đống này đi. Chặt mạnh tay, chặt cho hết nó thì tự khắc trong tâm sẽ vơi nhẹ đi những rắc rối của cuộc đời. Nị đã nghe câu giận cá chém thớt chưa?"

Ông Pạt chùi tay vô tạp dề. Ông gỡ tờ giấy cắm ở cây đinh đóng nơi cánh cửa. Ông đọc to cái thực đơn của tiệc cưới tối nay. Gồm tám món cả thảy. Mỗi món có một cái tên mĩ miều rất Tàu và khi chấm dứt, ông gục gặt đầu như một nhà thơ tự tán thưởng bài cổ thi ấy là hay.

"Có một điều lạ tôi cần nói cho anh em biết, là chẳng hiểu sao những tiệc cưới được tổ chức ở nhà hàng này, tất cả những đôi vợ chồng bước ra khỏi nơi đây đều hạnh phúc đầy mình; họ ăn ở với nhau thuận thảo và đã có nhiều trường hợp người vợ mang bầu xong liền sinh đôi, sinh ba."

Hính cười:

"Đã gọi là hạnh phúc đầy mình sao lại có cảnh sinh đôi sinh ba? Cái đứa làm cha thấy vậy thì chỉ có nước từ chết tới bị thương!"

Hắn moi bóp giấy tờ sau túi quần:

"Đó, một trăm. Xem như kỳ lương tới ông chỉ có nước húp cháo thôi. Và chớ đừng nói với tôi húp cháo cũng là một hạnh phúc. Bà già ông hỏi tôi, sao dạo này nó lầm lì và bí mật như mèo dấu cứt vậy? Ông gặp tiếng sét ái tình rồi sao? Dắt bồ tới ông Pạt cho ăn cái thực đơn kia xem có đẻ được hai ba đứa nhỏ cùng lúc không? Cứ thử đi. Nếu đúng thế thì A Hính này xem như cúng dường tất cả tiền nong cho nị đó. Thiện tai! Thiện tai!"

Nhát dao chặt mạnh xuống thớt. Rầm. Thịt văng lìa ra xa, xương còn ở lại với dao rướm máu.

"Bọn bây có theo dõi tin tức không? Có con mẹ mài cây dao sắc đợi chồng về giữa khuya bèn nhẹ nhàng đem thiến cái vật cà chớn kia."

Tiếng chuông nhà thờ từ xa dồn dập đổ về nuốt trôi giọng nói ông Pạt. Trên chảo dầu nóng khúc lạp xưởng co quắp cháy đen.

1681

Chuyện trong lớp học



Trong giờ học, giáo sư giảng cho sinh viên về hộp sọ:

- Đây là một mẫu sọ khỉ đặc biệt. Trong thành phố của chúng ta chỉ có hai chiếc. Một chiếc trong viện bảo tàng và một chiếc của tôi.



o O o


- Học nãy giờ, các em có cảm thấy đói bụng không?

- Có ạ, đói quá thầy ơi!

- Thầy cho phép các em nghĩ đến món ăn thích nhất. Một phút thôi đấy nhé!941

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2009

Mộng du



Nửa đêm, anh chồng lững thững ra khỏi phòng ngủ, cô vợ trên giường nhìn ra và nói:


- Này, anh ơi, khỏi phải giả làm kẻ mộng du như vậy nữa. Tôi đã đuổi cô giúp việc từ sáng nay rồi.
1445

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2009

Lý do xác đáng



Giờ học đã điểm mà chỉ thấy lác đác mấy cậu sinh viên ngoại trú, một lúc thấy các cậu sinh viên nội trú ký túc xá xếp hàng xin vào lớp với mái đầu bóng mượt, dáng đi oai phong. Thầy giáo hỏi:

- Tại sao hôm nay các anh lại rủ nhau đến trễ giờ quá vậy?

- Dạ, thưa thầy! - một sinh viên nội trú đáp – sáng nay ký túc xá đã có nước sau hơn một tháng tụi em mong đợi. Mong thầy thông cảm cho bọn em ạ!

- !?

1112

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2009

Để bão lặng rồi tính sau



Hai cha con người Gabrovo đi biển, đang lênh đênh ngoài khơi thì gặp bão. Ông bố ngửa mặt lên trời cầu khẩn:
- Lạy Chúa, xin Ngài hãy thương lấy chúng con. Qua được cơn bão này, con sẽ xin dâng Ngài một cây nến dài như cột buồm...
- Bố ơi, bố tìm đâu ra một cây nến dài như vậy?
- đứa con rụt rè hỏi.
- Im ngay, thằng ngốc!
- ông bố giận dữ
- Cứ để bão lặng đi đã, sau đó rồi tính.
2137

Ai hát trên đồi






Đó là một ngọn đồi bình thường bên lề quốc lộ, có một lối đi lên dài ngoằn ngèo được đắp kỹ bằng đất lèn có lót đá chẻ, đủ để thử thách mọi đôi chân dẻo dai nhất. Một ngọn đồi nằm quay mặt ra hướng biển, nhìn xuống đoạn quốc lộ vắng vẻ, tuyệt không một hàng quán, một nóc nhà nào. Phía bên hông ngọn đồi thoải xuống là mấy dãy nho um tùm không có trái vì đã hơn một năm nay không ai tưới tiêu gì. Cuối dãy nho dài là bờ sông, đoạn hướng ra cửa biển, nước cạn và lờ lợ theo từng con nước thủy triều. Đúng hơn đó chỉ là cuối nguồn của một con suối lớn chảy qua cây cầu nhỏ vô danh trên quốc lộ. Một nơi bình thường và buồn vắng. Không điện, không có địa chỉ, không có hàng xóm. Đầy gió và nắng.

Anh mua cả ngọn đồi này khi đi ngang qua đây trên chuyến xe tốc hành xuyên Việt, nơi được chọn để làm chỗ dừng xe cho hành khách xuống “xả hơi” mươi phút sau một hành trình dài. Anh thấy nó đẹp, mà hơn cả là nó hợp với anh. Anh nghĩ chị sẽ thích nó nhiều. Hơn một năm trước khi anh đến đây thì nó là một trang trại trồng nho xanh và nuôi thỏ của một gia đình có tám người con. Ba người con đầu kéo nhau đi vượt biên mười mấy năm trước, giờ quay về với chút tiền đã bảo lãnh cả nhà ra nước ngoài định cư. Đó là họ cứ thao thao bất tuyệt với anh đủ mọi thứ như vậy chứ anh nào có chú ý gì. Cái giá năm mươi triệu cho cả một ngọn đồi, một căn nhà ba gian mái ngói và toàn bộ vật dụng là khả dĩ chấp nhận được. Anh không cò kè một đồng nào. Giấy tờ được sang tên cho anh sau khi anh dọn về được mươi hôm. Vắng thật. Ở đây cái vắng lặng kéo dài và xa xăm đến vô cùng. Thỉnh thoảng chỉ có tiếng động cơ xe rít lên ngoài quốc lộ kéo theo một luồng khói bụi nhỏ, mờ dần rồi khuất hẳn phía bên kia cầu. Chỉ có vợ chồng ông già người Chăm bán tạp hóa phía trên mỗi tuần ghé lại để cho anh ít đồ dùng. Một cây thuốc lá, một lạng trà, hai chai rượu, tiêu hành ớt tỏi… Tiền thì anh đã đưa họ trước một triệu, cứ thề trừ dần.

Rồi anh về tận quê chị ở cách đó chừng hơn trăm cây số, đưa chị về ở chung. Chị vui lắm, căn nhà bắt đầu ấm lên vì anh cười nói suốt ngày. Anh chỉ cho chị xem mọi chỗ trong nhà, ngoài vườn, giếng nước, chỗ anh thường uống trà nhìn xuống thấy cả biển và cái cửa sông vô danh. Anh thấy chị cười. Nụ cười vẫn cứ buồn buồn như khi anh mới làm quen chị lần đầu mấy năm trước nhưng chừng như có ánh lên chút long lanh, chút hy vọng mới. Anh nói: cuối cùng mình cũng làm được. Có gì khó đâu em, mình cũng chỉ từng ước mơ như vầy thôi. Rồi anh thả hết lũ thỏ trong chuồng vào vườn nho, cắt hết trái xuống cho chúng ăn thỏa thích, thả luôn cả con khỉ con của chủ nhà cũ vào. Chim chóc cũng kéo về làm tổ đầy trên mấy dàn nho um tùm. Cho nó thêm màu xanh, anh làm theo ý chị.

Ban ngày lúc nước lên cao anh thường ra câu cá chỗ chân cầu. Cần câu anh đã có sẵn ba cái, bộ dồ nghề câu của anh mang từ Uùc về chắc đủ dùng đến cuối đời. Mồi câu là cơm nguội bóp với ngũ vị hương. Anh câu được đủ loại cá, mà anh chả biết gọi tên là gì. Cá câu về thường anh chỉ làm độc một món: Nướng. Vậy mà chị vẫn khen anh khéo làm bếp. Thường ngày anh chị ăn có khi hai, có khi ba, bốn lần cơm. Vô chừng lắm. Chị thích thế. Chẳng có gì ràng buộc. Bầu, bí, mướp còn đầy bên cái giếng nước sau vườn. Thích ăn gì nấu nấy. Bếp lửa nhà anh luôn có khói lên như anh vẫn thường mơ ước ngày xưa. Chỉ có điều không có đứa con, nhưng mà cũng không sao vì anh chỉ cần có chị.

Chị vẫn cười với anh mỗi khi anh đi câu về. Nụ cười vẫn một vẻ như vậy nhưng anh biết chị vui. Mà bây giờ đối với anh, anh chỉ cần chị vui.

Anh quen chị từ khi còn học nội trú ở Thủ Đức. Anh thường ra uống cà phê ở quán của chị, hay đúng hơn là chị phụ bán ở đó. Anh thích chị vì giọng nói miền Trung nhỏ nhẹ, đôi mắt cười buồn buồn. Nói chung không rõ ràng nhưng anh chỉ biết mình cảm thấy thích chị nên anh lui tới quán hầu như mỗi ngày. Quán chỉ có hai vợ chồng, một thằng em bà chủ và chị. Chị là cháu kêu ông bà chủ là Cậu Mợ, chắc có bà con vì nghe giọng nói cả nhà đều âm hưởng Miền Trung. Chị không đẹp, da hơi ngăm, tóc dài, mũi hếch, mắt mí lót. Bàn tay chị lại bị phỏng từ cánh tay xuống tạo nên một vết sẹo lớn trông rất xấu. Nhưng anh vẫn thích chị. Khi yêu nhau rồi chị hỏi tại sao anh vẫn thật tình không giải thích được. Hoàn cảnh của chị thật khổ. Mỗi chuyện chị kể cho anh nghe sau này khi nhớ lại anh đều chảy nước mắt. Khổ quá

Cha mẹ chị mất khi chị vừa hai tuổi, ngay khi đất nước vừa hòa bình. Một trái mìn còn sót lại sau mấy năm chiến tranh đã biến họ thành từng mảnh xương thịt rời rạc. Bà ngoại nuôi chị lớn chỉ bằng khoai lang, rau lang và tép kho mặn. Thứ tép Miền Trung nhỏ xíu như cây tăm mà người siêng năng đi xúc một ngày chỉ được chừng hơn nắm tay. Từ nhỏ chị đã gặp đủ thứ nạn: Té xuống từ mái nhà, chìm đò, phỏng nước sôi… rồi đủ thứ bệnh của con trẻ mà bà ngoại chỉ biết cho chị nhai Quế khô rồi xức dầu nóng cho qua cơn. Vậy mà chị vẫn lớn lên được. Có lần chị đi chăn bò cho nhà xóm trên, mải chơi thế nào để bò ăn lúa của ông Trưởng Aáp, bị ông ta lấy ngọn roi mây còn nguyên gai đánh cho tứa máu khắp người. Đêm về bà ngoại xức dầu cho chị mà nước mắt bà chảy hai hàng, bà nói cái số con này chỉ có chết mới hết khổ thôi. Khổ quá con ơi. Rồi bà cũng mất mấy năm sau đó. Chị phải đi làm thuê làm mướn đủ nghề để kiếm cơm sống qua ngày. Có ông Cậu họ về chôn bà trong cái chiếu duy nhất trong nhà rồi thỉnh thoảng ghé cho chị ít bánh trái, hoặc dăm ba đồng lẻ. Rồi mội đêm tối trời ông cậu mò về nhà, người sặc mùi rượu đã giở trò đồi bại với chị. Mới mười bốn tuổi đầu chị có biết gì đâu. Chỉ biết đau. Đau quá. Sáng ra ông cậu cho chị năm phân vàng dặn chị đừng nói gì. Chị cũng im.

Rồi chuyện đó cứ thỉnh thoảng lại tiếp diễn đến hơn năm trời thì chị bắt đầu khó ở. Chị có thai. Mới mười lăm tuổi đã có thai. Chuyện ông cậu đi về rồi cũng đến tai bà mợ ở huyện. Bà cùng đứa con gái và một người em kéo tới nhà đánh chị một trận thừa sống thiếu chết. Họ lột trần chị, đá vào bụng cho cái thai chết đi, rồi họ cắt tóc, xát muối ớt vào mắt chị. Đủ trò ác độc. Mấy người trong xóm cùng anh công an xã đưa chị đi cấp cứu ở Huyện. Ông cậu lén lút nửa đêm vào thăm, dúi vào tay chị năm chỉ vàng. Chị cười buồn bã. Chỉ phải mổ hai lần mới bình phục, nhưng chuyện có con như bao người phụ nữ khác sẽ không còn nữa.

Vậy đó, rồi chị lưu lạc vào Sài Gòn theo sự chỉ dẫn của một người bà con tốt bụng để tìm một ông Cậu họ khác, phụ bán cà phê. Hai năm sau ngày quen nhau anh mới nắm bàn tay chị. Bàn tay có vết sẹo dài, sẫm màu và xấu xí ấy làm anh cảm thấy hết nỗi cơ cực trong con người chị. Anh thương chị quá nhưng chỉ biết vậy, đời anh anh còn chưa lo xong làm sao tính chuyện khác được. Chị làm việc hầu như từ tảng sáng đến tối mịt không lúc nào rảnh rỗi để có thể cùng anh hẹn hò, mỗi khi anh tới chị chỉ mang ra cho anh một ly đen nóng như lệ thường và kèm thêm một ánh mắt trìu mến, đa cảm hơn mà thôi. Rồi một ngày lúc anh vừa bắt đầu thời gian thực tập tốt nghiệp thì hay tin chị bị đuổi. Cậu mợ chị bị mất ba trăm ngàn đồng và họ cho rằng chị lấy nên đã lén lục tung đồ đạc của chị, thấy có mấy chỉ vàng họ càng thêm nghi ngờ chị đã ăn cắp tiền của họ nhiều lần. Mặc cho chị van xin thế nào họ cũng không nghe, hai người lột lấy hết tiền vàng của chị và đuổi chị về quê. Quá đau đớn, chị không thể khóc thành lời, đôi mắt dại đi, xa xăm dần. Anh đi tìm chị suốt đêm mới gặp được chị ở bên đường quốc lộ, đói lạnh và đau khổ. Lần đầu tiên anh ôm chị trong tay và hôn lên môi chị, hôn lên bàn tay đầy sẹo của chị, hôn lên đôi mắt đã đờ đẫn vì đau khổ của chị. Anh nói trong nước mắt: Thôi đừng buồn nữa, từ nay có anh rồi…

Anh tìm một chỗ trọ rẻ tiền để chị ở tạm, rồi hằng ngày anh đến thăm, chở chị đi chơi đây đó bằng chiếc xe máy cà tàng của anh. Có lẽ đó là thời gian hạnh phúc nhất của chị mà cũng là của anh nữa. Biết bao nhiêu nơi họ từng ghé qua, công viên, bến tàu, rạp chiếu phim… biết bao nhiêu kỷ niệm mà sau này khi nhớ lại anh vẫn mỉm cười sung sướng. Chị thường gục đầu vào ngực anh rồi mỉm cười. Nụ cười vẫn y như vậy, vẫn là nét buồn cố hữu có pha chút hạnh phúc vừa chớm. Anh biết đàn guitare. Anh thường đàn hát cho chị nghe đến khuya. Những bài hát chị thích và những bài cả hai cùng thích, cả những bài anh thích mà chị không thích. Anh đàn không hay, ngón đàn chỉ học lõm từ những ngày nội trú nhưng đối với chị thì tuyệt vời lắm. Mấy người quanh nhà trọ vẫn thường tấm tắc khen anh chị đẹp đôi. Những lúc như vậy mắt chị lại long lanh thêm một phần. Anh cố gắng chạy tìm việc cộng với chút học bổng còm cõi để nuôi hai miệng ăn, tránh cho chị phải đi làm. Anh hứa sẽ không bao giờ để chị khổ nữa. Chị gật đầu, nhớ lại câu nói của bà khi còn bé. Bất giác thở dài.

Họ ở với nhau chừng hơn hai năm. Hai năm hạnh phúc tưởng chừng như bất tận. Họ mơ ước về một gian nhà đơn sơ, có vườn cây xung quanh, có giếng nước trong, có hàng dâm bụt chạy quanh sân. Một mái nhà yên bình có trồng nhiều hoa, vài loại rau, có khói tỏa lên từ chái bếp… Đêm đêm anh đàn hát cho chị nghe bên tách trà thơm, dưới giàn hoa thiên lý hay bất cứ hoa gì mà anh có thể trồng. Bao nhiêu mơ ước giản dị và đẹp đẽ đã cùng họ dệt nên một bức tranh tương lai, nơi không còn bất cứ nỗi buồn nào ánh lên trong đôi mắt chị.

Rồi anh được công ty cử đi học ở Uùc sáu tháng. Anh lưỡng lự bàn với chị xem có nên đi hay không. Chị bảo anh cứ đi, tất cả vì tương lai hai đứa thôi. Mơ ước là mơ ước, còn mình phải sống cho hiện tại nữa. Chị động viên anh đi học để lo cho tương lai sau này vì sau khi đi học anh sẽ được cất nhắc lên chức vụ cao hơn, thu nhập cao hơn nhiều so với hiện nay. Anh khăn gói ra đi, để chị lại một mình trong căn phòng trọ. Mấy ngày đầu anh viết thư, gọi điện về liên tục. Anh nhận thấy hình như chị có vẻ kém nhiệt tình hơn trước nhiều. Anh buồn nhưng không dám nói ra. Rồi những lá thư cuối không thấy chị trả lời. Anh nóng ruột lắm, chỉ mong đến ngày về để hỏi chị tại sao.

Anh về đến phòng trọ lúc tảng sáng. Căn phòng khóa trái từ bên ngoài. Anh bàng hoàng đứng lặng bên cạnh cả đống quà anh mua cho chị. Những chiếc váy xinh xắn, chiếc cài tóc, cái máy ảnh, máy CD…Bà chủ nhà trao chìa khóa cho anh: Cô ấy vừa đi cách đây hai hôm, cổ có trao lại cho cậu bức thơ này.

Anh nhận ra nét chữ nghuệch ngoạc của chị. “Anh. Em không thể tiếp tục giấc mơ của mình. Chúc anh nhiều hạnh phúc. Đừng tìm em.” Anh không hiểu chuyện gì cả, anh lục tung tất cả đồ đạc trong phòng để tìm một dấu vết. Không có gì. Không có ai đến thăm chị trong những ngày anh đi vắng. Chị đi đâu. Không ai biết.

Anh lái xe lang thang khắp nơi tìm chị. Anh hỏi từng người dù quen hay không quen. Có người nhớ ra anh nhưng cũng nhiều người không nhớ. Họ nói anh điên.

Anh đến tất cả những nơi họ từng ghé qua, hỏi cả quán cà phê nơi chị từng phụ bán. Bà Mợ chị vẫn vậy, cười khểnh: chắc bị nó lấy hết tiền bỏ đi rồi chớ gì. Anh muốn đấm vỡ mặt bà ta. Anh bỏ cả công việc để đi tìm chị. Đường gần, đường xa bặt vô âm tín.

Ba năm sau ngày chị bỏ đi. Anh tưởng chừng như đã bắt đầu một cuộc đời mới. Không có chị. Anh có một việc làm tốt, lương cao. Anh mua được một căn nhà nhỏ, sống một mình. Rồi tình cờ anh có tin của chị. Thằng em bà chủ quán cà phê năm xưa bây giờ lại vào làm việc cho công ty anh. Khi về quê xác nhận giấy tờ nó đã có tin về chị. Anh sống lại những ký ức năm nào, trọn vẹn đến từng cảm xúc nhỏ nhất, cứ như anh đang ngồi cho chị đơm lại cái cúc áo cho mình, cứ như anh đang đàn cho chị nghe bài “đêm đông”, mặc dù anh biết chị không thích bài này. Thì ra chị bị bệnh, một căn bệnh không thể chữa bằng cách nhai Quế khô và xức dầu nóng… Chị bỏ về quê để tránh cho anh hay. Trời ạ sao anh không nghĩ ra lúc đó nhỉ. Mà thật tình anh cũng không bao giờ hỏi chính xác quê chị ở đoạn nào, làm sao biết mà tìm. Còn một chuyện mà thằng em bà chủ cũng thú thật với anh là năm xưa chính nó đã ăn cắp tiền của bà chị. Nó rất ân hận khi thấy chị bị oan nhưng nỗi sợ hãi lớn hơn cả lương tâm nó, khiến nó không dám thú nhận.

Vậy là anh bỏ việc tìm về quê chị. Nhờ sự giúp đỡ của anh công an xã và vài người tốt bụng anh cũng tìm đến nơi chị ở, mái nhà của bà ngoại chị năm xưa. Bây giờ nơi này cũng thuộc quyền sỡ hữu của ông cậu đã làm nhục chị lúc mười bốn tuổi. Ông đã ly dị vợ về ở đây với chị.

Anh bán nhà, đem chị vào đây. Anh xây lại từng viên gạch cho giấc mơ năm xưa. Một mái nhà ngói ba gian, giàn thiên lý có bộ bàn uống trà nhìn ra biển lớn. Cái giếng sâu, nước trong có trồng đầy bầu, bí..vài chậu hoa huệ đất, hoa môn, một vạt mười giờ…

Trên đồi cao anh chị bên nhau, có nhau mãi mãi. Anh nói: Đó em thấy không có gì khó đâu, rồi mình cũng làm được hết. Anh sẽ sửa lại căn bếp cho thoáng để khói bay lên cao, anh trồng thêm vài cây dừa để tránh gió, chớ gió lớn kiểu này có ngày tốc mái quá. Chị cười. Vẫn nụ cười năm xưa.

Anh thường đi câu lúc nước lớn. Nhưng ở nhà anh vẫn để lửa cháy trên bếp để có thể từ xa nhìn về căn nhà của mình, có chị nơi đó. Đêm đêm, anh thường uống rượu, uống chút đỉnh để đàn hát cho chị nghe. Tiếng đàn hát nơi vắng vẻ này cũng làm yên lòng mấy vị khách đi xe đò dừng lại “xả hơi” dưới chân đồi. Nhiều đêm anh anh vừa đàn, vừa hát, vừa trò chuyện cùng chị. Anh nói: Em không bao giờ khổ nữa, anh hứa mà. Rồi anh anh cười. Anh cười vì thấy chị cười, anh cười mà hai hàng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt đen sạm, gân guốc. Chị nhìn anh trìu mến, mỉm cười. Vẫn là nụ cười buồn buồn và xa xăm. Nụ cười từ trong bức ảnh màu sau lớp kính dày trên tấm bia mộ trước sân. Chị nằm đó. Vĩnh viễn có anh. Vĩnh viễn không bao giờ đau khổ. Rồi anh lại hát. Hát ru chị ngủ. Hát mấy bài chị thích, mấy bài cả hai cùng thích và cả những bài anh thích nhưng chị không thích. Tiếng hát rên đồi vắng đầm ấm, vang xa theo ngọn gió tràn từ ngoài khơi…

Sài gòn, tháng chín hai ngàn lẻ ba. Đàm Hà Phú


1628

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2009

Với Honore de Balzak



Sói đến gần ngôi nhà nhỏ của bà và gõ vào cánh cửa. Cánh cửa này được một người thợ vô danh nào đó làm vào khoảng giữa thế kỷ 17. Người thợ đã làm nó từ gỗ sồi Canada rất mốt vào thời đó, tạo cho miếng gỗ một kiểu dáng cổ điển và treo nó lên những bản lề sắt. Có lẽ hồi xưa thì những bản lề này cũng tốt lắm đấy, nhưng bây giờ thì kêu cót két kinh khủng. Trên cánh cửa không hề có hoa văn nào cả, chỉ có ở góc phải phía dưới vẫn còn nhìn thấy một vết xước nhỏ. Theo truyền thuyết trong vùng thì đó là vết xước do cựa giày của Selesten de Shavard – tình nhân của Maria Antoanet và anh em họ hàng về phía ngoại của bà của ông của Khăn Đỏ. Ngoài điều đó ra thì đó là một cánh cửa hết sức bình thường, và vì thế chúng ta sẽ không cần thiết phải xem xét cánh cửa ấy kỹ lưỡng hơn.

2449

Ca Dao Vọng Về



Chờ em từ bấy tới giờ
lại làm ra vẻ tình cờ qua đây
tình cờ gió thổi lá bay
hóa ra đã hẹn từ ngày chưa quen

2

Chao ... đêm đẹp biết chừng nào
vẫn xin em chớ làm sao giữa trời
sáng hoài mà chẳng có đôi
đẹp như trăng cũng lẻ loi khuyết tròn

3

Bảo rằng nói một lời đi
lại thôi ... nào đã có gì với nhau
nhùng nhằng những chuyện chi đâu
gần xa như bạn như bầu thế thôi

4

Ngả bàn tay nhớ bàn tay
hương thơm buổi ấy thoáng bay trở về
nói nhiều cũng chỉ mình nghe
nhớ nhau mình lại vuốt ve tay mình...

1501

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2009

Chuyển đề tài



Trong công viên, đôi trai gái đang tình tự.
- Anh yêu em chứ?
- Tất nhiên, anh yêu em vô cùng!
- Vậy chúng mình cưới nhau đi anh.
- !
- Sao anh im lặng thế?
- À, vì em chuyển đề tài đột ngột quá!
2284

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2009

Vẽ theo trí nhớ



Một họa sĩ rất nổi tiếng được mời đến khai trương phòng tranh của đồng nghiệp. Nhận ra cô người yêu bé nhỏ của mình trong bức tranh khỏa thân đặt ngay trung tâm gian phòng, chàng họa sĩ hết sức ngạc nhiên và tức giận. Anh ta tức tốc tìm cô nàng, hỏi gay gắt:
- Sao em dám làm mẫu khỏa thân cho thằng cha ấy? Em định sỉ nhục tôi đấy à?
- Không! không đời nào em lại ngồi làm mẫu cho anh ta. Chắc là anh ấy vẽ theo... trí nhớ đó mà!
2281

Nghi ngờ



Cậu con trai từ trong phòng hô vọng ra:

Con: Bố ơi, tại sao trái đất lại quay hả bố?

Bố: Cái gì? Chắc mày lại uống vụng bia của bố rồi phải không???1968

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2009

Trắng Xóa




Nữ ca sĩ Cúc Phương và nhà kinh doanh Trần Vĩnh Phúc đi với nhau như một đôi đũa lệch. Vợ trông có da có thịt, cao hơn người thường. Chồng thì xương xẩu thấp lùn, cứ phải ngước mặt lên trời khi nhìn vợ. Không hiểu sao cô nàng da trắng mịn đến độ ai cũng muốn sờ vào một chút. Thật tương phản với cái vỏ vừa xám vừa khô của Trần Vĩnh Phúc. Cũng may, hắn biết phận mình. Ai có gặp Cúc Phương phải nhìn về đằng sau nàng hơn một thước mới tìm được bóng phu quân. Nếu thực sự nghĩ tới nhân vật không cần thiết này. Cô ca sĩ đi đâu cũng trưng ra một nụ cười thừa thãi. Nhà kinh doanh lầm lì như một góc trời u ám báo hiệu một cơn mưa.
Nói Cúc Phương đẹp thì quá đáng. Đồng ý, thân hình nàng làm như chỉ muốn dẫn con mắt đàn ông đến những chỗ da ở trần. Không để những con mắt này lân la ở những nét đều đặn của khuôn mặt hay vùng mượt mà của mái tóc dài. Phần của khoa học thẩm mỹ ở đây gồm có bộ ngực ngạo nghễ, cái mũi Tây phương và hai lúm đồng tiền trên má. Nhưng vẫn có gì thiếu thanh nhã, hơi thô ở nàng. Có lẽ là vẻ mặt ngơ ngác, không thể gọi là thông minh nhanh nhẹn. Hay điệu bộ vụng về, dáng đi không thướt tha. Cách trang điểm quá nặng, mùi nước hoa rẻ tiền và những kiểu quần áo cầu kỳ còn gây khó chịu. Dù sao đi nữa, cái đẹp nếu có cũng tan biến khi người ta thử nói chuyện với Cúc Phương. Có ai còn biết nói gì với nàng sau vài ba câu trao đổi? Khổ nhất là phải chịu đựng những chuỗi cười lớn của nàng. Tiếng cười bất ngờ, nhạt thếch, chẳng vui chút nào. ở người đàn bà này không có gì là tự nhiên. Mọi cử chỉ lời nói đều tìm kiếm sự chú ý của người chung quanh. Có cảm tưởng như lúc nào nàng cũng cần có khán giả chiêm ngưỡng mình. Nữ ca sĩ Cúc Phương có vài khía cạnh hấp dẫn thật. Nhưng ở nàng thiếu vắng một nét duyên.
Nhìn Trần Vĩnh Phúc thì làm sao có được cảm tình? Chỉ cần để ý đến đôi mắt hắn. Đôi mắt luôn luôn trốn tránh người đối diện, lấm lét nhìn trước nhìn sau như sợ điều ám hại. Khi hắn mở mồm ra nói chuyện, đôi mắt nhắm nghiền lại, đôi môi chu về phía trước, những câu nói vướng víu nhau, xiêu vẹo vì thiếu thẳng thắn. Khỏi tả những lúc, dưới viền râu lún phún, cặp môi mỏng dính và thâm xì méo mó một nụ cười nịnh bợ. Hắn ngồi đâu một lúc là bắt đầu rung đùi bần bật. Người ta rung đùi khi sung sướng, không ai như hắn, rung vô cớ từ một tâm trạng bất an thường trực. Trần Vĩnh Phúc còn có tật xỉa răng suốt ngày. Cái bàn tay che dấu góc miệng chỉ càng làm chú ý đến những lục lọi của que tăm. Thịt rau dính ở khe răng tất nhiên nằm trong tưởng tượng của hắn. Một nhà tâm lý học sẽ giải thích cái ám ảnh về vệ sinh ở đây bằng một mặc cảm đầu óc không trong sạch, có từ một tuổi thơ nhiều thiếu thốn. Đã vậy, hắn còn chọn mặc những áo vét xanh đỏ lòe loẹt, không làm quên được nước da đen đủi của hắn. Tất cả ở Trần Vĩnh Phúc như có gì giả dối và sợ sệt. Hiếm có trường hợp một hình tướng lại để lộ rõ như vậy cái thấp hèn của một con người.
+
Cúc Phương không thuộc vào những giọng ca nổi tiếng ở Mỹ hay Pháp. Nàng sẽ không bao giờ được chọn cho những băng vidéo bán chạy nhất, đang từ Paris và California tràn ngập về trong nước. Trần Vĩnh Phúc đã có lần lỗ vốn khi đưa vợ từ băng nhựa lên CD. Chỗ hành nghề của Cúc Phương chỉ có cái phòng trà Việt Nam nằm ở ngoại ô Paris. Những lúc nó không bị đóng cửa vì một trận ẩu đả hay một lần gian thuế. Ngoài ra, một năm được hai ba đại nhạc hội, một vài dạ vũ của các hội cựu học sinh hay đồng hương, và những đám cưới trước hè. Thỉnh thoảng lắm mới được một nhà hàng Tàu sang trọng. Thu nhập của ông chồng kinh doanh thất thường khiến Cúc Phương phải có thêm ở nhà nghề sửa quần áo, và nhận làm chả giò bánh cuốn suốt năm.
Vậy mà mỗi khi nữ ca sĩ Cúc Phương bước vào tiếng nhạc, nàng cứ tưởng cả vũ trụ đã nôn nao chờ nàng. Chính nàng làm những dòng nhạc bừng tỉnh dậy, hòa vào nhau, chen nhau chạy đến đón nàng. Không gian được mở rộng cho riêng một người. Cô nghệ sĩ buông trôi cho âm nhạc thấm dần vào mình. Nàng sẽ say hơi ấm của những ánh sáng đã lên màu, đến mân mê thân thể nàng, bám theo từng cử chỉ bước đi của nàng, như bao nhiêu cặp mắt ở đâu đó trong vùng bóng tối. Tiếng hát nàng xua đi những ưu phiền của cuộc sống, dẫn vào thế giới huyền ảo của cảm xúc. ở đó, tình yêu đã giành lại ngôn ngữ, đưa lòng người về những xao xuyến, vì một ánh nắng, vì một giọt mưa. Không còn người đàn bà tầm thường của hàng ngày, Cúc Phương đã hóa thân thành nhạc thành thơ. Những lời nàng hát là những bông hoa tản mác trong đêm, bay bổng về một góc nhớ của người nghe. Cúc Phương thấy mình đẹp tuyệt vời ở nơi gặp gỡ của thơ và nhạc.
Những lúc đó Cúc Phương quên đi số phận hẩm hiu của giọng ca nàng. Nàng không nhớ người ta chỉ cần nàng đóng góp cho một không khí văn nghệ, giúp vào một buổi khiêu vũ. Cô ca sĩ cứ việc hát, những món thịt cá tiếp tục lan tràn các bàn tiệc, rượu ngon vẫn làm mọi người cười nói oang oang. Những cái nhìn âm thầm quan sát không ngừng lâu ở người ca sĩ, mau chóng trở về so sánh sự giàu sang hạnh phúc của những kẻ cùng giới. Khi bụng no, người ta ra sàn nhảy, muốn tiếng hát đừng át tiếng trống giữ nhịp cho điệu nhảy. ở một vài nơi còn có các bà các ông nóng lòng chờ cô ca sĩ hát cho xong để đến phiên mình trình diễn. Con cái của họ đã lớn, họ cần làm văn nghệ để lấp các khoảng trống, và cần cái nhìn của thiên hạ để hiện hữu. Những người như họ yêu văn nghệ là chuyện dĩ nhiên, vì trong đời sống đầy đủ của họ tình cảm cũng phải có thừa. Đừng lầm họ với những kẻ xướng ca vô loài, hát vì đồng tiền bát gạo.
+
ở những nơi Cúc Phương trình diễn, Trần Vĩnh Phúc lẽo đẽo theo vợ như một bóng mờ. Sự hiện diện của hắn không cản nổi những chàng hào hoa phong nhã đến quàng vai tán tỉnh cô nghệ sĩ lẳng lơ. Trần Vĩnh Phúc lo mọi chuyện hợp đồng giá cả cho vợ, nhưng nhất định không nhận mình là ông bàu. Hắn tự giới thiệu là một nhà kinh doanh. Có hùn vốn vào một vài công ty thương mại hoạt động trong cộng đồng Việt Nam ở Pháp, và gần đây ở cả trong nước. Hắn mà kinh doanh cái quái gì! Khá lắm là lâu lâu làm môi giới trong những chuyện buôn đi bán lại lặt vặt. Nếu không, tại sao cô vợ còn phải trát phấn trát son đi hát đêm, và hắn còn phải ngồi chờ vợ hàng giờ, mặt thiểu não trong một góc tối phòng trà?
Không ai biết rõ quá khứ của gã Phúc này. Những lúc bắt buộc phải nói gì đó về hắn, người ta lại mang ra những câu chuyện đồn đại. Sự nghiệp kinh doanh của hắn nghe đâu bắt đầu vào đúng những ngày bộ đội bước vào Sàigòn. Hắn đã nhanh trí tụ tập được nhân công để may gấp những lá cờ Mặt Trận Giải Phóng đủ cỡ, bán khắp thành phố. Khi có người bắt chước làm theo thì hắn đã chuyển qua cờ đỏ sao vàng, còn nhận làm thêm biểu ngữ, bích chương, vòng hoa chiến thắng... Thu nhập của hắn tăng vùn vụt theo số lượng các buổi mít tinh, diễn hành, liên hoan của chế độ mới. Khi giai đoạn ăn mừng giải phóng đi qua, hắn biến mất một thời gian, rồi xuất hiện lại ở một xóm lao động khác, xa nơi cũ. Người ta kể ở đó hắn thân thiện với nhóm công an của phường. Một con người như hắn đâu có chế độ chính trị nào tin được, cho dù hắn khoe khoang "thành tích" đào ngũ quân đội cộng hòa. Nhưng thời đó cần nhiều lớp trung gian giữa chính quyền mới và nhân dân thành phố. Hắn lại sẵn sàng làm những chuyện đòi hỏi phải cất đi nhân cách. Người ta nghe nói, khi trong phường có cậu Việt kiều yêu nước về thăm gia đình, hắn đã đến ngồi cả ngày ở phòng khách gia đình cậu ta, cho tới khi nhận được tờ giấy 10 đô, vài hộp thuốc Tây và bao thuốc lá ngoại. Trần Vĩnh Phúc lấy được Cúc Phương là nhờ chút quyền hành cách mạng được chia. Đừng ai trách cô thiếu nữ mới vào sống ở thành phố đang cần hộ khẩu. Phải hiểu thêm cho, cô ta lúc đó vừa bị chồng bỏ, đến thằng con trai cũng từ chối theo mẹ. Đầu óc làm ăn của gã Phúc có lẽ hợp với nền kinh tế chưa có thị trường (xã hội chủ nghĩa). Những năm thiếu thốn mọi thứ, gã Phúc lúc nào cũng có đồ để bán cho các cán bộ từ Bắc vào, từ thuốc lá Ba Số giả vào ngã Trung quốc thay vì Thái Lan, đến đủ loại văn hóa phẩm đồi trụy lính Mỹ để lại. Rồi hắn đứng ra tổ chức những chuyến tàu vượt biên, khi thành công khi đổ bể. Trong trường hợp những cây vàng của thiên hạ biến mất trước khi tàu đóng xong, hắn lại chỉ rõ thủ phạm, chứng minh được mình chỉ là trung gian, cũng bị lừa như mọi người. Người ta đoán phần lớn vốn liếng của gã Phúc có từ thời hoạt động cho thiên hạ tìm tự do.
Rồi một ngày hai vợ chồng lên tàu đến trại tỵ nạn ở Pulau Bidong. Không đầy một năm sau, họ được chọn vào Pháp. Chẳng hiểu bằng cách nào Trần Vĩnh Phúc có giấy chứng nhận là cựu nhân viên hãng dược phẩm Roussel của Pháp ở Sàigòn. Cho dù người ta nghi ngờ đến cả tờ giấy khai sinh của hắn. ở Paris, quả thật gã Phúc có hùn vốn vào hai ba tiệm phở Việt Nam, thường đóng cửa khi hết những năm miễn thuế. Hắn có làm chung với người Hoa một vài nơi may quần áo lậu. Gần đây, hắn đứng làm môi giới cho các gia đình ở Pháp muốn tìm con nuôi ở Việt Nam. Hắn đi đi về về, mỗi lần lại có nhiều thêm tên tuổi những nhân vật quan trọng hắn coi là thân, trong chính quyền và ở các cô nhi viện. Cộng sản, Phật giáo, Công giáo hay Cao Đài đều là chỗ quen biết. Hắn lôi ra một lần nữa cái luận điệu thời tổ chức đi chui, nói mình chỉ muốn làm việc thiện, đâu có kiếm chác được gì trong đó. Chẳng ai tin ở lòng nhân ái của gã Phúc. Người ta chỉ cần cái kinh nghiệm luồn cúi của hắn.
Trần Vĩnh Phúc không chịu sống với những người cùng hoàn cảnh và trình độ với mình. Hắn còn tuyên bố rằng giới nghệ sĩ chung quanh vợ hắn là những kẻ đáng nghi ngờ. Nếu nghe hắn thì chỉ có những người nhiều quyền lực hay tiền tài mới đáng tin cậy. Gã Phúc tìm mọi cách len lỏi vào môi trường người Việt thượng lưu ở Paris. ở đó người ta khinh rẻ hắn, cũng vì vậy mà nghĩ hắn không đủ khả năng lừa bịp, làm hại được ai. Người ta chấp nhận quan hệ với hắn chỉ để làm nổi bật lòng rộng lượng và giá trị của mình. Có thể hắn cũng biết điều đó. Nhưng hình như cách kiếm sống của Trần Vĩnh Phúc chính là để người khác bước đạp lên mình.
+
Thiên hạ thường nghĩ đời một cô ca sĩ chắc phải sóng gió, với những mối tình cho và nhận bừa bãi ở những chốn ăn chơi hời hợt. Trong trường hợp Cúc Phương, sự trung thủy với một kẻ kém cỏi như gã Phúc càng không thể tưởng tượng được. Lạ thay, mặc dù tất cả ở Cúc Phương như một lời mời mọc, nàng lại từ chối những chàng nghệ sĩ tình cảm lai láng và những tay chơi tiền tài dư thừa. Không ai nghĩ gã Phúc đủ sức làm cho người vợ sợ mình. Kẻ xấu mồm nghi là hắn giữ cô nàng bằng bùa ngải. Nhiều người đồng ý với một giải thích sâu sắc hơn. Cúc Phương chỉ có bề ngoài, nàng sợ đàn ông thất vọng khi nhìn thấy con người thật của nàng. Nàng thỏa mãn với một ông chồng chẳng có gì cho phép hắn đòi hỏi ở người khác.
Chuyện nàng dăng díu với ông dược sĩ Nghĩa không xảy ra ở thế giới vui đêm. Nó bắt nguồn từ cái bệnh máu khiến Cúc Phương phải mua thuốc chữa trị tháng này qua tháng khác. Không có bệnh máu này thì ông dược sĩ và cô ca sĩ chẳng thể nào gặp nhau. Tiệm dược phẩm của ông Nghĩa ở gần nhà nàng, ông còn là người đồng hương. Ông Nghĩa chỉ có một mình, ở xa nơi gia đình cư ngụ và chỗ vợ làm việc. Buổi sáng tiệm thuốc vắng khách, Cúc Phương rảnh rang, hai người có thể ngồi nói chuyện cả giờ. Nàng thấy mọi thứ ở đây đều có vẻ trong lành, làm yên tâm. Từ tiệm thuốc sạch bóng, đến cái blouse trắng và đôi kính cận thị của ông chủ tiệm.
Ông Nghĩa không có cái nhìn cởi quần áo và những câu nói thô tục của loại đàn ông Cúc Phương thường gặp. Ngược lại, ông nói chuyện đứng đắn lịch sự, văn vẻ trí thức. Nghe ông kể về những chuyến du lịch ở các nước xa xôi lạ lùng, Cúc Phương thấy ông hiểu biết rộng và có cuộc sống phong phú. Đời của ông ổn định làm sao, với bà vợ làm kỹ sư và hai đứa con vừa học giỏi vừa ngoan. Cô nghệ sĩ không bị lòe mắt bởi cái xe Mercedes mới toanh của ông, hay các loại giải trí đắt tiền của gia đình ông. Nàng biết của cải và may mắn trên đời không thể chia đều cho mọi người. Nhưng nàng không ngờ một người thành công như ông Nghĩa lại giản dị, dễ thân như vậy. Phải nói Cúc Phương chỉ thực sự bị lôi cuốn từ khi, quen nàng hơn, ông Nghĩa bắt đầu tâm sự về cuộc đời của ông. Cô khách không cùng môi trường sống, không cùng giới, ông không có gì phải thận trọng giấu giếm.
Hóa ra ông Nghĩa không có hạnh phúc! Từ hồi trẻ đến bây giờ, đã gần 50 tuổi, mọi chuyện trong đời ông đều được vạch sẵn, tổ chức chặt chẽ, không có chỗ cho tình cờ và may rủi. Thời chiến tranh ông đi du học, gia đình đủ phương tiện để ông chọn đường học vấn dài, ra trường ông lấy vợ liền, con nhà danh giá và có nghề nghiệp vững chắc, bố mẹ ông và gia đình vợ ngay lúc đó hùn vốn mua tiệm thuốc, thiếu bao nhiêu thì nhà băng vui vẻ cho mượn tiền, vợ chồng lập kế hoạch có 2 con, cách nhau 2 tuổi, và 2 nhà, 1 biệt thự ở ngoại ô cho mình và 1 căn hộ trong Paris cho thuê. Những gì gặt hái được là những kết quả không thể khác.
Nhưng ông Nghĩa thiếu những thất bại để hưởng sự thành công của mình. Mặt khác, sự nghiệp của cả hai vợ chồng đã ổn định, con cái đã vào đại học, tiền của đã đủ chỗ đầu tư, nhà cửa không thể làm đẹp hơn, tiêu thụ đã cạn nhu cầu, giải trí phải bớt đi vì tuổi tác... Ông thương vợ con không thua gì ai. Nhưng tình thương này cũng thành thói quen, con mắt không còn nhìn thấy. Như bức tranh đắt tiền rơi vào quên lãng khi treo quá lâu. Cuộc sống mất dần mùi vị và ý nghĩa. Ông dược sĩ chán đời giữa cảnh gia đình đầm ấm và sự giàu sang. Vẫn biết thiếu gì người thèm thuồng địa vị của ông. Nhưng họ không hiểu, chẳng có niềm hạnh phúc nào mọc lên được từ đất khô cằn của một đời người quá phẳng lặng.
Ông Nghĩa càng than vãn, cô ca sĩ càng muốn gần gủi ông hơn. Tất nhiên Cúc Phương không thể hiểu và thông cảm một hoàn cảnh xa lạ với nàng như vậy. Nhưng nàng nhìn thấy ở người này một cái gì tương tự như một tâm trạng nàng có. Phải chăng mọi nỗi bất hạnh, dù khác nhau đến đâu đi nữa, đều muốn xích lại gần nhau? Vì cái thiếu hạnh phúc của kẻ khác làm nguôi đi cái khổ của chính mình. Thêm vào đó, chưa bao giờ có ai cần tình thương của Cúc Phương như vậy, kể cả chồng nàng. Cúc Phương không ngờ cá nhân mình cũng có thể cần thiết cho một người khác. Cho tới nay nàng chỉ biết ngồi chờ nhận, bây giờ nàng mới có dịp để cho. Khi an ủi ông dược sĩ, nàng thấy lòng mình trong sáng, cao thượng lên. Mỗi lần đến tiệm thuốc, người đàn bà tưởng như đẩy lùi được những hạn chế của mình, thoát ra ngoài một thân phận thấp kém.
Ông dược sĩ và cô khách thân cùng nhau vào sâu những tình cảm tâm tư thầm kín của mỗi người. Lần này qua lần khác, họ cởi bỏ từng lớp cái bí mật che chở cá nhân. Cứ như vậy họ bị thu hút về chỗ trần truồng nhất của con người là thể xác. Bắt đầu là những thoáng đụng chạm, như tình cờ vô ý, đi theo những lời trìu mến. Sau đó, hai người càng chối nhận sự dao động của mình, hai thể xác càng tưởng được phép giục gọi nhau. Cuối cùng, cuộc gặp gỡ xác thịt trở thành cần thiết để họ gần nhau hơn. Họ làm tình vội vàng vào những giờ nghỉ trưa, nơi căn phòng nhỏ phía trong tiệm thuốc, đến cả cái giường cũng thiếu. Có khi họ cuồng loạn như say khướt tội lỗi. Có khi họ vụng trộm như trốn tránh chính mình.
Phúc sẽ không bao giờ biết được chuyện của vợ chàng với ông Nghĩa. Tiệm dược phẩm chỉ cách nhà có hai ngã tư nhưng ở rất xa thế giới của Phúc. Hai người đàn ông có gặp nhau vài lần trong khu phố. Nhưng người Việt ở đây chẳng mấy khi chào nhau ngoài đường khi không quen biết. Suốt thời gian tới lui tiệm thuốc, thái độ của Cúc Phương và cả tình cảm của nàng đối với chồng không thay đổi nhiều. Không phải vì nàng giả dối với Phúc hay với chính mình. Nàng gặp ông dược sĩ ở ngoài cái thực tế của nàng. Những giờ nghỉ trưa của tiệm thuốc là những khoảng thời gian nằm trong dấu ngoặc, tách rời khỏi cuộc sống thật. Như những giấc mơ vừa xa vừa ngắn, chúng không để lại những dấu vết lâu dài. Ông Nghĩa không có mặt trong địa phận Cúc Phương chung với chồng. Ông đứng ngoài với một phần riêng tư của nàng, cái phần dù sao cũng không có chỗ trong đời sống vợ chồng nàng.
Với thời gian, ông Nghĩa nhận ra sự sa ngã của mình. Ham muốn và thỏa mãn quá ngắn ngủi so với những dằn vặt sau đó. Ông còn thấy chẳng đổi trác được gì với cô nhân tình. Vì chỉ có ông mới có thứ để cho, để mất. Cô ta không như ông, đâu có một hiện tại và một tương lai đáng được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Những giá trị của ông ngày càng lung lay, do lỗi cô nghệ sĩ đùa nghịch với đạo đức người khác. Cúc Phương phải thấy rõ hạnh phúc của gia đình ông. Ông tỏ ra chăm lo gia đình hơn trước, ông điện thoại cho vợ con trước mặt cô nhân tình, ông dẫn nàng đi mua quà cho họ... Ông Nghĩa đi từ mặc cảm tội lỗi qua cái sợ. Ông cầu cứu Trời Phật, tổ tiên, thày bói, đồng cô đồng cậu. Ma quỷ hãy tha cho ông. Để ông trở về với cuộc sống trước đây, một cuộc sống ít nhất còn được yên ổn. Cúc Phương lúc đó mới biết, giữa nàng và người đàn ông này chỉ có sự hiểu lầm hai chiều.
+
Trong căn hộ nhỏ, người đàn bà tội lỗi ngồi chờ chồng về. Căn hộ giống cả trăm căn hộ khác trong dãy nhà chung cư nằm dài theo đường xe lửa, ở một ngoại ô xa Paris. Buổi chiều ở đây có một bộ mặt thẫn thờ. Khu phố loay hoay với những sinh hoạt vô nghĩa. Thời gian như lết từng bước khật khưỡng nặng nề. Người đàn bà nhìn ra cửa sổ chỉ thấy những bức tường. Những bức tường bằng xi măng, bằng gạch, bằng đá thô, bằng gỗ, bằng tôn, bằng kính mờ, bằng vải cũ... Màu sắc khi tẻ nhạt, khi đục bẩn, khi sặc sỡ vô duyên. Những bức tường giam hãm các căn nhà và mẩu sân, chia cắt không gian, che dấu ánh sáng, chặn đứng tầm nhìn, áp đặt những giới hạn. Có cả những bức tường nằm ngang dọc trong đầu người đàn bà.
Sáng hôm nay, Cúc Phương đến tiệm thuốc lần cuối cùng. Nàng đã chuẩn bị từng lời nói để cuộc chia ly giữ đủ tư cách cho hai người. Chắc ông dược sĩ cũng đã sẵn sàng phần ông. Liên hệ của họ đã loãng nhạt đi nhiều, nhưng còn phải chấm dứt làm sao cho đàng hoàng. Vậy mà họ vẫn làm hỏng cái cảnh chót của một chuyện tình nhàu nát. Hai người tình nhân hụt hẫng, tình cảm đã cạn khô quá mức họ tưởng tượng. Những lời nói khi thốt ra mới lộ hết sự què quặt của chúng. Cố gắng của mỗi người chỉ làm tăng một sự giả dối không còn cần thiết. Cuối cùng, còn lại những cái nhìn xin lỗi nhau, thảm thương. Tình yêu này là một chuyện vô lý. Một sai lầm. Nó không xứng đáng có một kết cuộc tử tế.
Người đàn bà giờ đây đứng ngẩn ngơ bên cửa sổ, mắt ướt nhòa. Nước mắt không gửi về người nhân tình đã thành xa lạ. Cũng không tiếc nuối cái thời gian có ảo ảnh của một hạnh phúc. Cúc Phương khóc cho thân phận mình. Nàng đã bị chặn lại khi định ra khỏi thế giới nghèo nàn của mình. Nàng đã bị xô đẩy trở về cái góc đời đặt sẵn cho mỗi cá nhân. Cô nghệ sĩ đã nhìn lại mình chưa mà đem lòng tội nghiệp người khác? Sự rộng lượng chỉ nên có ở những kẻ nhiều may mắn. Cúc Phương vươn lên cũng vô ích, không ai cần những tình cảm cao thượng đến từ hạng người như nàng. Những ý nghĩ như thế cứ quanh quẩn trong đầu, để nước mắt từng giọt rớt xuống những ảo tưởng bị dập vùi.
Cúc Phương chợt nhớ, mỗi lần nàng đau khổ vì một thất bại hay một mất mát nào đó, lại có Phúc ở gần. Người chồng lúc nào cũng có mặt, như bao nhiêu lần chờ đợi nàng ở cuối những đêm khuya. Phúc là nơi trở về của nàng. Là thực tế của nàng sau những ước mơ vỡ vụn. Người đàn ông này không bao giờ biết nói những câu yêu đương, làm sao tìm được một lời dỗ dành an ủi. Nhưng tất cả ở trong sự hiện diện và đôi mắt của chàng. Phúc hiện diện như một nhân chứng, để Cúc Phương không còn một mình với những ác nghiệt và bất công nàng phải nhận. Đôi mắt Phúc sẽ ở với nàng thật lâu, cho đến khi tiếp thu được hết nỗi bất hạnh từ nàng. Chỉ như vậy thôi, cặp vợ chồng đã chung nhau từng ngày mưa ngày nắng, từng niềm vui nỗi buồn, từng đoạn đường của một hành trình dài. Họ chia sẻ với nhau những hy vọng từ khi chớm nở, những tủi nhục cho đến khi quên. Họ gom góp lại cả sự cô đơn của mỗi người. Hai số phận không thể xa cách. Cúc Phương đã mang trong người sự hiện hữu của Phúc, và đã gửi chồng cả một phần của nàng.
Bàn tay chưa lau xong nước mắt Cúc Phương đã mỉm cười. Nàng nghĩ tới những đêm vợ chồng trở chứng mò tới nhau trong chăn mền. Lần nào, sau khi tắt đèn đầu giường, họ cũng đợi một lúc cho tắt hẳn âm vang của những ngày đang đi qua. Tắt đi phần nhìn thấy của cuộc sống. Ngón tay cái của Phúc sau đó bấm nhẹ vào một nơi nào đó trên người Cúc Phương. Hay nàng khều gọi chồng mình ở đầu những ngón chân. Người đàn bà ngồi dậy, đưa lưng cho chồng. Chàng cẩn thận vén mái tóc dầy qua hẳn phía bên kia bờ vai. Mở thật chậm từng khuy áo, kéo dài thời gian đón nhận những hương vị đầu tiên của nàng. Từ đó người đàn ông đi theo vết hằn của sườn lưng, bắt đầu cuộc phiêu du vào hiện thực người đàn bà. Các mảnh vải nhường chỗ dần cho da thịt cọ xát vào nhau. Những ngón tay ân cần và đầu lưỡi ướt mềm của ai lang thang khắp thân thể Cúc Phương. Đi từ những đầu ngọn, đến các góc khe, vào tận chốn cội nguồn của khoái cảm. Đi tới đâu lại khơi dậy những ngọn sóng tỏa về muôn hướng. Không biết từ lúc nào bóng tối đã thành màu sắc. Trong bóng tối đó hai người nhận diện được nhau trọn vẹn. Chỉ còn sự thật của thể xác, những hơi thở, và cuộc trao đổi cảm xúc. Khi Cúc Phương đón nhận người đàn ông vào mình, sự hiện diện của chàng đột nhiên đầy ắp không gian, và từ các vùng da thịt thoát lên những âm thanh nguyên thủy. Tất cả ở nàng từ đó muốn bám chặt vào sự hiện diện này, theo về những đỉnh cao. ở sâu trong Cúc Phương, các con sóng càng lúc càng đổ nhanh về nơi hội tụ. Rồi tình yêu nở rộ bất ngờ.
Chỉ có Phúc mới biết lắng nghe, bắt gặp những dao động nhỏ nhất trong Cúc Phương. Vì tất cả xúc cảm của chàng tùy thuộc vào những gì trổ ra từ đó. Bây giờ Cúc Phương mới hiểu. Trong ân ái Phúc không giành một thân thể cho riêng mình. Chàng muốn mỗi chi tiết của thân thể này là một mẩu đất vun trồng sự hòa nhập của hai người. Chàng gửi vào đó một tình cảm ít khi Cúc Phương nhận được ở đời. Một tình cảm quý hơn sự ham muốn, là sự tôn trọng một con người. Tôn trọng toàn vẹn một con người.
Trong căn hộ nhỏ, người đàn bà biết chồng sắp về. Chiều ngả mình vào lòng tối khiến chân trời ửng đỏ một nỗi xôn xao. Những vết nắng cuối cùng long lanh một ánh sáng thần diệu. Bóng tối như mái tóc thiếu nữ loang dần xuống làn da của một ngày. Những người lao động trở về làm khu phố rối rít cả lên. Từ dưới nhà vọng lên tiếng trẻ thơ đùa nghịch, tiếng gia đình tìm gọi nhau, và muôn vàn tiếng động của cuộc sống. Có ai ngờ âm nhạc đã tràn đầy không gian, làm có người ngây ngất một niềm vui rạo rực.
1460

Bậy bạ quá



Trong giờ toán, cô giáo vẽ hai nửa hình tròn lên bảng bỗng một cậu học sinh kêu to: "Ô cái mông"

Cô giáo rất giận và mời thầy hiệu trưởng đến để kỷ luật học sinh này vì tội nói bậy trong lớp. Thầy vừa bước vào nhìn ngay lên bảng và nói với cậu bé: "Em sẽ bị kỷ luật nặng đấy. Tại sao em lại dám vẽ cái mông lên bảng như thế này?"

1129

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2009

Tình yêu vay mướn








ta vẫn thèm khát-khao lời em nói,
nhưng ngày lặng im, không một tiếng chào!
em vồn-vã hỏi thăm người gian dối,
mà quên ta như kẻ lạ sơ-giao!

  
ta không biết vàng thau giờ lẫn-lộn,
em phấn-son còn chăn gối cho chồng?
dung-nhan đó bao nhiêu người đưa đón,
hạnh-phúc nầy em bán lại ta không?


tình yêu nầy ta còn đi vay mướn,
nên bao giờ cũng phải chịu lỗ thua,
trả không biết bao nhiêu lời và vốn,
chung bây giờ đã khác thủy khi xưa!


bởi cô-đơn, ta tìm mua hạnh-phúc
tưởng giếng sâu, ta nối sợi dây dài.
đời nhiễu-nhương nên chân-tình quá mắc,
đời dối-gian ta còn biết tin ai?



2727

Gà trống "pêđê"



Trong trang trại có 10 con gà mái, một con gà trống già và "tân binh" gà trống tơ. Đây là lần thứ 4 ông chủ mua về một con trống tơ để thay thế lão trống già. Gà cũ gạ gẫm cậu lính mới chia đôi số gà mái, nhưng chú ta từ chối phắt. Thế là hắn lại phải diễn vở kịch quen thuộc:
- Chú trông thế mà chưa chắc đã khoẻ hơn tôi đâu! Hay ta chạy thi?
- OK, được ăn cả, ngã về... hưu.
- Chú chấp tôi nửa vòng sân chứ?
- Chơi luôn, bắt đầu đi! Vừa là đạo diễn, vừa đóng vai chính, gà già vừa chạy trước vừa hét ầm ĩ. Nghe thấy tiếng ồn, ông chủ liền ra xem và lại nhìn thấy cảnh cũ: Gà trống mới mua đang đuổi theo đòi "đạp" gà trống cũ. Sau một phát súng, ông chủ xách kẻ "ngựa non háu đá" vào bếp, vừa đi vừa lầm bầm:
- Chợ dạo này toàn bán... gà pêđê!
2226

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

Vì sao sợ



Bác sĩ trưởng khoa hỏi bệnh nhân mặt mày tái xanh:

- Này anh kia, lẽ ra bây giờ anh phải ở trong phòng mổ, tại sao anh lại bỏ chạy ra đây?

- Vì tôi nghe cô y tá nói: “Anh không nên hoảng loạn như vậy. Mổ ruột thừa là một phẫu thuật đơn giản nhất trong tất cả các loại phẫu thuật”.

- Cô ta nói đúng mà?

- Thì đúng. Nhưng cô ấy không nói với tôi mà là nói với anh bác sĩ trẻ đứng mổ ấy chứ!
1924

Hết khoe chữ



Có một nhà sư hay khoe chữ, thích đối đáp. Một hôm, học trò vào vui cảnh chùa, nhà sư ra câu đối, thách đối:


- Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ


Thấy câu đối có ý châm chọc mình, anh học trò liền trả miếng:


- Trên sư dưới sãi, ngảng lưng trở lại, trên vãi dưới sư


Từ đó, nhà sư chỉ lo đọc kinh kệ, không dám khoe chữ nữa.

857

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2009

Cô bé Quàng Khăn Đỏ và... các nhà văn (phần 5)



Với Lukianhenko

Khăn Đỏ dừng lại trước cầu thang nhỏ - ba bậc thang rộng và không cao - dẫn vào nhà và nói:

- Xin chào Sói.

- Xin chào, khách bộ hành, - Sói rút tẩu thuốc ra khỏi miệng và trả lời. Anh ta có một giọng trầm rất dễ chịu, giọng đàn ông, nhưng lại có chút gì đó rất mềm mại, dịu dàng và nữ tính. Có thể nhận thấy một chút accent, nhưng cái accent này nhẹ đến nỗi chỉ sau vài giây tai bạn sẽ không còn cảm thấy nữa. – Hãy vào nhà và nghỉ ngơi đi

- Tôi muốn về nhà - Khăn Đỏ vừa ngồi vào ghế bành vừa nói. – Càng nhanh càng tốt.

Sói vẫn ngậm tẩu thuốc. Thậm chí mùi thuốc lá cũng trở nên ấm cúng, gần gũi. Không hiểu sao loài sói tiếp nhận những thói xấu của loài người dễ dàng hơn hết – chúng thích rượu, còn độc cái ý tưởng hút thuốc lá cũng làm cho chúng hân hoan.

- Ở đây buồn và cô đơn lắm, - Sói nói. Câu nói nghi thức vang lên chân thành đến kinh ngạc – thật khó mà nghĩ ra một chỗ nào còn buồn chán và cô đơn hơn cái hành tình lạnh lẽo, ẩm ướt toàn là đầm lầy này. – Hãy nói chuyện với tôi đi, khách bộ hành.



Sói ngẫm nghĩ, lắc lư người và xoa xoa cái bụng. Rồi rút tẩu thuốc ra khỏi miệng:

- Cậu đã làm tan đi nỗi buồn và sự cô đơn của tôi rồi đấy, khách bộ hành



o O o


Với Stiven King

Vương quốc bị chiếm chỉ vì trong lò rèn không còn đinh nữa – chính điều này cũng xảy ra với Khăn Đỏ, nếu như chỉ lấy cốt lõi của vấn đề. Cuối cùng thì tất cả các bạn có thể đưa đến một mẫu số chung – sau đó một lúc thì Khăn Đỏ cũng nghĩ thế. Hoặc là tất cả mọi chuyện đang diễn ra đều là tập hợp không may của sự kiện… hoặc đó là số phận. Khăn Đỏ đã vấp phải số phận thực sự theo nghĩa đen ở Heven – một thành phố nhỏ bang Men ngày 21 tháng 6 năm 1988. Đó mới là nguyên nhân; còn Sói Xám thì chỉ là hậu quả mà thôi



o O o


Với Carlos Castaneda

Tôi đến gần nàng và muốn nói rằng chiếc mũ nàng đội rất đẹp, nhưng nàng đã nói trước:

- Ở rìa thì xốp, còn ở trong thì dày hơn, - nàng chỉ lên mũ nói. Nhận xét của nàng trùng khớp với những gì tôi định nói đến nỗi tôi nhảy dựng.

- Anh vừa mới định nói về chiếc mũ.

- Như vậy có nghĩa là em vượt trước anh – nàng nói và cười với vẻ vô tư của một đứa trẻ.

Tôi hỏi, liệu nàng có thể trả lời cho tôi vài câu hỏi được không.

- Anh quan tâm đến chuyện gì?

- Điều em nói với anh chiều hôm qua về những chiếc bánh rán làm anh rất xúc động. Anh không thể hiểu nổi, em định nói về cái gì?

- Tất nhiên là anh không thể hiểu được điều đó. Anh thử nghĩ về điều đó, nhưng điều mà em nói không trùng với những ý nghĩ của anh.

- Anh thử nghĩ về điều đó, bởi vì đối với riêng anh thì đó là phương cách duy nhất để ăn một cái gì đó.



o O o


Với Roger Joseph Zelazny

Sau một thời gian thì Khăn Đỏ đến gần và ngồi bên cạnh:

- Em thấy rằng anh đã có thêm một ít trang sức độc đáo, - nàng nói, thận trọng chạm đến đôi tai của tôi. – Chúng có tác động đối với anh đấy chứ?

- Cũng được chút chút. Như thế anh nghe thấy em rõ hơn.

- Hay nhỉ, thế anh tìm được chúng trong Tấm gương nào đấy, hay chúng có liên quan đến Mê cung?

- Đúng. Trước khi biến mất thì Đvorkin có kể cho anh, làm điều đó như thế nào.

- Thế chuyện gì xảy ra với đôi mắt của anh thế? Dường như chúng không chỉ phục hồi lại, mà còn trở nên quá biết nói đối với một kẻ xảo quyệt như anh, hoàng tử Sói Xám ạ.

- Đó là để nhìn em được rõ hơn, em thân mến ạ, - tôi nói, trong khi nhớ lại một câu truyện cổ tích xa xưa mà tôi đã nghe khi nào đó tại Tấm gương có tên là Trái Đất

Khăn Đỏ phá lên cười rồi chửi rất tục.

- Em biết ư? Em đã hiểu tất cả rồi ư? – tôi ngạc nhiên.

Nàng gật đầu.

Ngọn gió quỷ quái đưa chúng tôi tới phía đông của mặt trời.



o O o


Với Robert Heinlein

- Cẩn thận! Sói!

Miếng sắt bập vào thanh gỗ ngay trên đầu Khăn Đỏ mạnh đến nỗi nếu như gã tồi tệ kia không trượt tay thì chắc là sọ của nàng đã bị chẻ thành hai mảnh. Khăn Đỏ vội vã cúi xuống lấy đà, và dùng sàn làm điểm tựa nàng đạp chân xuống sàn và bay vài mét theo hành lang, không quên cầm theo con dao.

- Hắn trốn thoát rồi ư? – Khăn Đỏ hỏi.

- Trốn rồi, - Bà trả lời. – Ta đã nhìn thấy hắn lặn vào cửa thoát. Hình như là hắn có bốn chân.

- Bốn hay hai thì bây giờ đằng nào chúng ta cũng không thể bắt được thằng đểu ấy, - Khăn Đỏ nói.

- Còn ta cũng không phản đối việc bắt giữ hắn đâu, để nói chuyện về vài thứ, - Bà thốt lên. – Giá mà hắn thấp hơn chừng 2 inch nhỉ - thế thì chúng ta đã vào Chuyển đổi rồi đấy.



o O o


Với Arthur Conan Doyle

Thế đấy, bây giờ các vị cũng thấy rằng cả những khả năng khiêm tốn của tôi cũng cho phép sử dụng phương pháp suy luận, phương pháp mà bạn tôi đã sử dụng thành công xiết bao. Từ chỗ nấp của mình tôi thấy rất rõ một cô gái đội cái mũ đỏ rực đang nói chuyện bên bờ đầm lầy với một chàng thanh niên trẻ tuổi mà tôi hoàn toàn chưa biết, nếu cứ xem quần áo và mũ đội đầu của anh ta. Đó là một con Sói tầm thước, vẫn chưa mất hy vọng đạt được những đỉnh cao trong nghề nghiệp của mình, nhưng lại đang phải khổ sở vì không đủ khả năng đảm bảo cho gia đình mình những gì cần thiết nhất.

Tất nhiên là giá như có bạn tôi ở đây thì anh ấy sẽ xác định ngay được theo dạng của đuôi và tai của người lạ mặt, rằng cái gia đình ấy gồm có người mẹ - một bà lão, người cha hay quá chén, và hai cô em gái, nhưng những suy luận của cá nhân tôi thì không trải xa hơn những phỏng đoán mơ hồ về những gì chứa trong chiếc làn trên tay cô gái…

Không, không còn nghi ngờ gì nữa, người lạ mặt lịch sự đến để giúp cô gái, và bây giờ họ đang thảo luận sôi nổi vấn đề cứu bà cô – một bà lão tuyệt diệu mà không hiểu tại sao lại sống ở một nơi khỉ ho cò gáy, rất xa cô con gái hoàn toàn tầm thường của mình – một người phụ nữ nông thôn nước Anh điển hình, biểu tượng của tính bảo thủ của chúng ta và một ít truyền thống tức cười, ôi, những thứ mà tôi rất thiếu trong những năm lang thang ở Apganistan…

Nhưng ai hay là cái gì đe dọa phu nhân đứng tuổi kia trong cái xứ hoang vu chẳng có người nào, chắc Chúa đã quên ấy? Bạn tôi đã có thể tự hào vì tôi – tôi đã có giả thuyết độc lập của mình! Tất nhiên là nguy hiểm xuất phát từ nhữn
g gã đàn ông đáng nghi ngờ mà tôi đã nhìn thấy trong rừng tới hai lần – hình như là họ chẳng bao giờ rời tay khỏi những chiếc rìu của mình. Nhưng làm sao tôi có thể cản trở không cho chúng thực hiện âm mưu đó? Ôi, Holms, Holms, tôi cần anh đến chừng nào…
2466

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2009

Bay



Khách và chủ ngồi uống rượu, mỗi người tợp một ngụm rồi cứ ca thán rượu nhạt mãi:

Của này còn nóng chứ mà bay hơi thì bằng nước lã.

Vợ nhà chủ đỡ lời:

Chưa kịp bay hơi các ông đã làm bay cả chai rồi còn hơi nào mà bay kịp?

2747

"Dê đen và dê trắng"



Toét đi mẫu giáo, cô giáo thấy Toét rất thông minh, nhớ nhanh nên hôm có đoàn thanh tra đến dự giờ, cho Toét lên kể chuyện.

Toét liền kể chuyện "Dê đen và dê trắng":

- Có một chú dê trắng đi tới một khu rừng để tìm ăn lá non và uống nước suối. Bỗng một con sói ở đây tìm tới...

Đột nhiên, Toét đổi giọng chó sói, chỉ thẳng vào mặt thầy thanh tra, quát lên:

- Dê kia, mày đi đâu? Sao hè năm ngoái mày dám đuổi việc bố tao?

- !!!
1347

Thứ Năm, 10 tháng 9, 2009

Sành điệu



Một ông hói nặng vào hiệu cắt tóc, nói với tay thợ:
- Này anh, tóc tôi chỉ còn có ba sợi thôi. Anh cắt cho tôi cẩn thận nhé! Tay thợ hỏi:
- Vậy ông định cắt kiểu gì?
- Mái lật! Tay thợ loay hoay một lúc, bỗng làm rụng mất một sợi.
- Bây giờ chỉ còn hai sợi, cắt thế nào thưa ngài?
- Rẽ ngôi giữa! Thật không may, lóng ngóng thế nào lại làm rụng một sợi nữa. Anh thợ lo lắm, bèn hỏi:
- Bây giờ lại rụng một sợi rồi, thưa ngài. Làm thế nào bây giờ?
- Chải ngôi bên!
- ông ta tự tin trả lời.
1802

Cô dâu thử tài chú dể




Tối hôm động phòng, cô dâu đóng cửa buồng không cho chú rể vào, ra một vế câu đối, bảo đối được mới mở cửa. Cô dâu đọc:


Hang Thiên Thai, then khóa động đào, đóng chặt lại kẻo chàng Lưu quen lối cũ


Cô dâu đã dùng điển "Lưu thần nhập Thiên Thai" để ra câu đối. Nhưng cú rể không phải tay vừa, dùng luông điển "Bái Công nhà Hán dẫn quân vào cửa Hàm Cốc", đôi lại:


Cửa Hàm Cốc, lỏng khuôn tạo hóa, mở toang ra cho ông Bái dân quân vào.


Cô dâu chịu là đối giỏi và mở toang ngay cửa ra để đón chú rể vào.

858

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2009

Đàn bà hay thù dai



Tại coupé hạng nhất trên chuyến tàu bắc
- nam có hai hành khách một nam, một nữ. Từ khi vào toa, hai người đã tỏ ra rất đồng điệu. Câu chuyện đậm đà dần đến lúc hai người cùng rút ra kết luận là không thể tin tưởng vào vợ và chồng của họ ở nhà, bởi thế nào cũng có chuyện bồ bịch lăng nhăng. Đêm xuống, nghe từ giường bên, cô gái cứ thở dài thườn thượt, anh chàng gạ gẫm:
- Hay là... chúng mình cùng trả thù họ một phen?
- Anh cũng ghê gớm thật, nhưng... em càng nghĩ càng thù bọn họ! ... Sau "trận đòn thù" thừa sống thiếu chết, người đàn ông về nằm thượt ở chỗ của mình. Tuy nhiên, tiếng thở dài vẫn phát ra từ giường bên. Anh ta ngạc nhiên hỏi:
- Em vẫn chưa ngủ được à?
- Chỉ nguôi được một lúc rồi cơn giận lại bùng lên. Hay... anh sang đây lần nữa cho em đỡ nghĩ ngợi lung tung?
- Thôi thôi em ơi! Đàn bà tụi em là chúa hay thù dai.
2241

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2009

Nó có nhiều con mái hơn tôi



Hai vợ chồng trẻ nọ đi tham quan một trang trại, người chủ trại giới thiệu một con gà trống rất đẹp mã và nói:
- Từ sáng giờ nó đã đạp mái 10 lần rồi đó! Người vợ quay sang chồng, hỏi giọng miệt thị:
- Nghe thấy không? Anh này liền kéo vợ lại chỗ ông chủ trại gà và hỏi:
- Nó làm được việc ấy với một hay 10 con mái?
- Dĩ nhiên là 10 con mái rồi! Người chồng quay sang vợ nói:
- Nghe thấy không?
2188

Thứ Bảy, 5 tháng 9, 2009

Tiếng thét



Có một tai nạn vì điện, tại hiện trường, thanh tra cảnh sát hỏi ông chồng:

- Ông nói là nghe thấy tiếng bà nhà kêu thét lên, tại sao ông không chạy vào bếp để cứu?

- Mọi khi vẫn thế, bà ấy có làm sao đâu!

- Ông muốn nói rằng, vợ ông vẫn thường xuyên bị điện giật?

- À không, bà ấy vẫn thường xuyên thét lên như vậy.



o O o


Hai ông nghiện thuốc lá nói chuyện với nhau:

- Hút thuốc nhiều hỏng hết cả giọng.

- Đúng vậy! Giá mà ông nghe tiếng thét của vợ tôi, mỗi khi tôi làm rơi tàn thuốc xuống thảm.2598

Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2009

Thích Nằm Giữa



Có hai vợ chồng trẻ.  Anh chồng mải làm ăn, suốt ngày chỉ lo làm ra tiền, nên tối về hễ đặt lưng xuống giường là ngủ ngay.  Chị vợ nằm trằn trọc mãi mà không ngủ được.  Cuối cùng, chị đưa tay sang lay chồng.  Anh chồng tỉnh dậy hỏi:

    - Em cần gì thế?


    - Em chẳng cần gì cả, nhưng em nằm ngoài sợ ma lắm.


    - Sợ ma thì nằm vào trong để anh nằm ra ngoài.


    - Ứ ừ!  Nằm trong, nhỡ có trộm nó sờ vào người em thì sao?


    Anh chồng mệt, lại buồn ngủ, nghe vợ nói vậy liền nói như gắt gỏng:


    - Nằm ngoài sợ ma, nằm trong sợ trộm, thế em thích nằm chỗ nào?


    - Ứ ừ!  Em thích nằm ở giữa cơ.  Nằm ở chỗ giữa này này.


    (Dị bản: Có anh chàng lỡ độ đường gõ cửa nhà một bà goá chồng ngủ nhờ.  Nhà chật chỉ có một cái giường và một cái màn.  Ðầu tiên, anh ta nằm dưới đất, bà goá muốn bảo anh ta lên nằm chung nhưng sợ xấu hổ mới bảo "Muỗi nhiều lắm, tôi cho anh gửi cái chân vào màn".  Anh này thò chân vào màn, sau bà lại bảol "Cho gửi thêm cái tay, vì tay để trần vậy thì muỗi đốt chết".  Về sau, biết ý anh này bảo "Tay, chân gửi rồi, còn người cho gửi nốt".  Rồi, anh lên nằm giường chung với bà chủ).

304

Có Một Người Không Có Trong Đám Đông



Khi gặp Diễn lần đầu tiên, tôi biết rằng người đàn ông mà bấy lâu nay tôi tìm kiếm cho đời mình đã xuất hiện. Đó là hôm khai mạc phòng tranh của các họa sĩ miền Trung và Tây Nguyên tổ chức thường kỳ tại trung tâm triển lãm thành phố.

Trong phòng khách của nhà tôi, có một bản sao bức Mùa thu vàng của Levitan. Bức họa khiến tôi thèm muốn có một lần nào đó được bước chân vào cái không khí thu thực sự với những con đường ngập lá vàng, những chiếc lá óng vàng khi những tia nắng mặt trời chiếu rọi qua. Có lẽ chính vì yêu mùa thu từ bức tranh của Levitan, mà khi bước vào phòng triển lãm, chạm phải bức tranh lạ lùng Mộng của tôi, tôi giật thót mình khi nhìn thấy gương mặt cô gái đang nhìn chiếc lá vàng chao rụng xuống bờ hồ là gương mặt của tôi. Tôi chứ không ai khác, đang chăm chú nhìn mùa thu đang trôi qua bằng một chiếc lá vàng. Tôi nhận ra phong cảnh làm nền cho bức tranh chính là hồ Hoàn Kiếm vì có ngọc tháp quen thuộc ẩn mình trong tranh. Càng đáng ngạc nhiên hơn vì tôi chưa hề đặt chân đến Hà Nội bao giờ.

Đó là bức tranh của Diễn, bức tranh không hề đoạt giải và cũng chẳng có chiếc nơ nào gắn lên để chứng tỏ rằng nó đã được mua. Còn tôi có mặt trong phòng tranh hôm đó không phải vì yêu thích hoặc đam mê nghệ thuật, mà bởi vì tôi có nhiệm vụ mang lẵng hoa tới cho kịp giờ khai mạc do một người khách gửi đến. Tôi làm việc ở bưu điện trung tâm.

Bức tranh chỉ ký tên rất gọn: Huỳnh Diễn. Và ngày hôm đó Diễn không có mặt tại phòng tranh, trong một buổi lễ mà mọi người đều mặt veston, thắt cravat, đôi giày của ai cũng đều đánh bóng và ai cũng mang bên mình một xấp danh thiếp để sẵn sàng giới thiệu về mình cho bất cứ một nhân vật nào có mặt. Những nhà doanh nghiệp luôn luôn được chú ý, có thể họ không hiểu gì về hội họa và cũng chẳng yêu thích gì hội họa, nhưng họ sẵn sàng bỏ ra một món tiền lớn để mua bức tranh nào đó để chứng tỏ sự lịch lãm của mình trưóc đám đông. Diễn không có mặt, và chắc anh cũng không thiết tha gì để bán bức tranh duy nhất gửi dự treo. Chính sự không có mặt ấy thôi thúc tôi đi tìm anh để tìm câu trả lời tại sao anh lại có thể vẽ tôi- chứ không phải là ai khác- trong bức tranh của anh.

Hôm ấy, khi tôi đang ngồi ăn đỡ gói xôi mang theo trong buổi sáng đang vắng khách thì Diễn xuất hiện. Diễn đứng áp sát bên tấm kính chắn giữa giao dịch viên và khách hàng, nhìm chăm chăm vào tôi khiến tôi ngượng đến đỏ cả mặt. Anh nói như reo lên: " Đây rồi!" .

Vâng, sau này tôi mới biết câu chuyện về bức tranh của Diễn không phải là tình cờ, mà lại từ một cảm hứng. Diễn đã bắt gặp " tôi" trong một bức ảnh minh họa trên một tờ báo. Khi nhìn thấy bức ảnh, anh không nghĩ rằng sau đó anh đã bị ám ảnh và trong một lần ngẫu hứng dạo theo bờ hồ Hoàn Kiếm vào một ngày thu, anh đã thể hiện nét bút của mình. Hôm triển lãm anh vẫn còn đang ở tận Hà Nội vì bận một số việc chưa về kịp. Sau đó anh nghe bè bạn kể chuyện về cô gái đem hoa tới có khuôn mặt giống như bức chân dung do chính anh vẽ. Và anh đã tìm tới tôi.

o0o

Anh không phải là người của đám đông chiêm nghiệm, khen ngợi hoặc chê bai. Thế giới sống của Diễn và tôi là hai thế giới khác. Nhưng khi chạm vào đôi mắt của Diễn, tôi biết tôi không thể nào để vuột mất anh.

Sáng hôm ấy, anh hẹn tôi ra tận Bãi Tiên, ngồi trong một quán vắng, nhìn ra một ghềnh đá. Những bọt sóng cứ mải mê lao vào tảng đá ấy rồi bắn tung toé lên cao. Anh nói rằng anh chọn nơi này bởi vì ít người tìm đến, và bởi vì anh chỉ thích sự tĩnh lặng. Diễn có lý, vì chính sự yên lặng của nơi này đã khiến cho tôi nghe được những tiếng bọt sóng vỡ tan khi chúng rơi vào ghềnh đá. Cũng từ buổi gặp gỡ ấy, tôi bước vào thế giới của Diễn một cách bất ngờ, và tôi cứ ngỡ rằng bằng linh cảm của một người phụ nữ, tôi có thể hiểu được hết những gì Diễn giấu kín trong tim.

Diễn đẹp trai với gương mặt toát ra một sức hút nhất định đối với người đối diện. Anh có nụ cười nửa môi khiến cho bất cứ ai đã gặp đều không thể quên được. Và thế là ngoài những giờ làm giao dịch viên bưu điện, thời gian còn lại tôi đều dành cho anh.

Nhưng tôi không hiểu tại sao một con người tài hoa và nhạy cảm như Diễn lại hoàn toàn không thích đám đông ? Anh không bao giờ có mặt trong những tiệc cưới, anh tách mình ra ngoài những cuộc nhậu nhẹt rượu chè hoặc có chăng thì anh luôn im lặng, không ồn ào. Ngay cả trong tình yêu cũng vậy, anh không biết tặng hoa hoặc nói những lời hoa mỹ để làm đẹp lòng tôi.

Trong tình yêu, người ta không nhìn thấy sự thiếu hụt của nhau. Tôi bị cuốn vào Diễn như một con thiêu thân bị cuốn vào ánh đèn chói lòa. Diễn nói: " Có thể một ngày nào đó em sẽ chán anh" . Tôi im lặng, rồi nhìn vào đôi mắt anh đang chăm chú nhìn tôi: " Tại sao phải chán anh ?" . " Vì chúng ta ở hai thế giới riêng. Em cần phải gặp nhiều người, còn anh thì không muốn gặp ai" . Nhiều lần, anh từ chối khi tôi ngỏ ý theo anh đến Hà Nội. Hà Nội là nỗi mơ ước tìm gặp của tôi. ở đó, tôi nghe nói có nhiều đình chùa cổ với những huyền thoại khác nhau. Tôi muốn cùng Diễn lang thang trên những con đường đầy cây xanh của Hà Nội, ghé Hồ Tây ăn món ốc hấp gừng hoặc món bánh tôm lừng danh. Nhưng Diễn chỉ cười: " Gặp anh là đủ rồi. Hà Nội thì cũng như ở nơi đây thôi, cũng đường phố, cũng người và xe cộ" . Những cuộc gặp của chúng tôi hoàn toàn do Diễn chủ động tìm đến hoặc gọi điện thoại đến nơi tôi làm việc. Rồi chia tay, anh đưa tôi về trên chiếc xe của anh, rồi hẹn gặp. Anh mất hút trong đám đông.

Anh vẫn vẽ những bức tranh, những bức tranh có khi bán được, có khi được triển lãm. Nhưng trong tất cả những bức tranh Diễn vẽ sau này, không có bức nào tôi thích bằng bức tranh tôi đã gặp lần đầu, bức tranh vẽ mùa thu Hà Nội.

o0o

Ai đó đã nói nếu cuộc sống thiếu sự bất ngờ thì cuộc sống trở nên nhàm chán. Điều đó có lẽ cho đến giờ này vẫn đúng. Cho nên tôi quyết định tạo cho Diễn một điều bất ngờ.

Thường thì mùa thu Diễn trở lại Hà Nội, anh sẽ xách giá vẽ lang thang ở Quảng Bá hoặc có thể lặn lội một nơi nào đó để cảm nhận cái huyền diệu của mùa gợi nhớ này. Anh không có cái thú viết thư, Diễn nói anh bận lắm. Và hơn hai tháng nay tôi đã lạc mất anh trong đám đông.

Cuối năm, công ty tổ chức cho những giao dịch viên một chuyến tham quan Hà Nội như là một cái cớ để thưởng công cho những cá nhân xuất sắc. Tôi là một trong những người được chọn đi.

Đất trời đang vào cuối đông, trời lúc nào cũng mây mù và buồn. Hà Nội tạo ấn tượng khá mạnh cho tôi, khi tôi vừa rời khỏi xe lửa, bước ra khỏi ga ngay đường Lê Duẩn. Địa chỉ nhà của Diễn tôi tìm thấy trên tấm b283

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2009

Bọn hậu vệ



Một tiền đạo bóng đá nổi tiếng đến gặp nha sĩ. Sau khi khám kỹ, ông bác sĩ vừa thương cảm vừa giận dữ:
- Thứ nha sĩ vô lương tâm! Hắn đã làm hỏng phần lớn hàm răng của cậu.
- ?!
- Nói cho tôi biết! Tay nào trước đây điều trị nhổ răng cho cậu?
- Phọn... phậu phệ...

2341

Làm thế nào



Vị giáo sư giảng bài cho sinh viên Y khoa:

- Để đoán biết tuổi của loài động vật có xương sống, người ta thường quan sát bộ răng của chúng.

Một sinh viên thắc mắc:

- Nhưng thưa giáo sư, loài gà, loài chim lại không có răng. Thì làm thế nào để biết ạ?

- Thì chúng ta dùng răng của mình chứ sao!
1401

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2009

ma




Thủa nhỏ, tôi tin cả ma lẫn quỷ. Quỷ, theo trí tưởng tượng của tôi, là những quân đầu trâu mặt ngựa, hung ác vô ngần, có những cánh tay nổi đầy bắp thịt rắn như sắt, và những bàn tay gân guốc cầm những kìm để cặp lưỡi, vặn răng, những bàn vả, những búa rìu, những cưa để bổ xẻ tội nhân. Tôi liên tưởng đến những hình cụ ghê gớm như vạc dầu, cột đồng lửa... đến cả những cầu vồng với đàn chó ngao đứng chực sẵn dưới. Những hình ảnh kỳ quái, ghê sợ ấy không phải tự óc non nớt của tôi nghĩ ra, mà do ở những bức tranh treo ở chùa Huệ, mỗi khi có đám chay lập đàn phá ngục.

Còn ma thì mỗi lúc tôi tưởng tượng một khác, tùy theo câu chuyện người ta kể cho tôi nghe. Có lúc tôi tưởng tượng ra một người con gái xinh đẹp như một nàng tiên. Có lúc là một vị ác thần với nét mặt thay đổi đủ các hình kỳ quái, dữ tợn.

Những sự tưởng tượng ấy in sâu mãi vào óc tôi và nung đúc tôi thành một đứa trẻ nhút nhát. Nhưng tính tự đắc của tôi lại rất mãnh liệt, có khi làm át hẳn tính nhút nhát của tôi đi.

Tôi còn nhớ, một đêm tối trời và giá lạnh, anh tôi kể xong một chuyện ma. Rồi muốn thử xem trong chúng tôi có đứa nào bạo, anh tôi đặt ra một cuộc thi rất giản dị nhưng rất khó cho những tay nhút nhát. Cuộc thi như thế này: ở tận cùng vườn có cây ngâu. Ai ra tận đấy, bẻ được cành ngâu cầm về, sẽ được cuộc.

Vừa nghe nói đến cây ngâu, tôi đã rủn cả người, rợn cả tóc gáy. Vì cây ngâu không cách cây sung mọc trên bờ ao mấy. Và cây sung đã nổi tiếng sẵn ma.

Chúng tôi nhìn nhau. Xem chừng anh nào cũng muốn thi tài, song chẳng một anh nào dám nhúc nhích... Bỗng một anh ló đầu ra khỏi cửa lại thụt vào ngay, lè lưỡi, trợn mắt, tỏ vẻ sợ hãi.

Sách, người anh họ đã lớn, đứng cạnh phỉnh tôi: "Ai chứ Tíu thì bạo lắm. Đâu nó còn đi được nữa là từ đây đến cây ngâu."

Anh tôi nói khích:

- Có các vàng cũng đố dám!

Lòng tự đắc của tôi bỗng sôi nổi. Mặt tôi nóng bừng vì cơn tức khí. Không nghĩ ngợi, tôi chạy vụt ra sân, bước mạnh bạo vào trong vườn.

Trời tối đen như mực. Tôi đâm choạng vào các bụi cây. Luống cuống, quên cả lối, mò mãi chẳng tìm thấy cây ngâu. Trở về không thì bẽ quá. Anh em còn ai cho mình là bạo nữa. Họ sẽ thi nhau chế riễu mình. Lòng tự đắc bắt tôi tìm cho được cây ngâu, dù lúc ấy trí tôi rối loạn, chân tay tôi bủn rủn và quả tim tôi đập như trống ngũ liên. Vừa đi vừa sờ soạng, tôi lần ra tận gốc sung mà không biết. Sờ đến cái da xù xì của nó, tôi giật mình, lạnh toát cả người.

May mà lúc ấy yên gió. Không một quả sung nào rụng, không một con ếch, con nhái nào nhẩy xuống ao. Thật, chỉ thêm một tiến tõm, không biết tôi sẽ trở nên thế nào?

Tôi bước giở lại, mồm luôn luôn đọc hai câu chữ nho: "Thiên tích thông minh, thành phù công dung." Thường tôi vẫn thấy nói: ma bao giờ cũng sợ giời, sợ thần thánh, nên lúc nào đi đêm, tôi cũng nhẩm đọc hai câu ấy để làm bùa trừ tà.

Cây ngâu cách cây sung có vài bước. Tôi tìm được, bẻ vội một cành. Cái mừng đắc thắng làm cho lòng tôi bớt sợ. Song chỉ một loáng, đâu lại hoàn đấy. Cái sợ có phần tăng gấp bội.

Hai cẳng chân tôi như bị chuột rút. Tôi cố dấn bước mà không sao dấn lên được. Đằng sau tôi như có người đuổi theo, tiếng chân nện thình thịch, sắp sửa vồ lấy tôi. Lúc ấy, nếu có ai hét một tiếng, chắc tôi sẽ ngã sấp xuống, chết ngất đi.

Tôi được cuộc, được tiếng bạo nhất nhà, nhưng đã hao tổn bao nhiêu tinh thần. Từ đấy, nhiều phen tôi điêu đứng khổ sở về cái bạo bề ngoài. Còn gì khổ bằng một anh tí hon nhát gan, làm ra mặt bạo. Động có cuộc thử thách là bắt buộc phải đến tôi. Nhát cũng được, nào ai cấm. Nhưng mà đã trót bạo mất rồi, không sao đủ can đảm mà thú thực mình nhát được nữa.

Một buổi chiều, tình cờ chúng tôi đứng trước một túp lều tranh bỏ hoang, ở sau trường học. Túp lều ấy, khi trước là nhà Cai trường. Từ khi hắn chết, người kế chân hắn sợ, không dám ở. Họ đồn nhà ấy có ma.

Vì thế, chưa nói đến cuộc thi, tôi đã tái mặt, đau khổ như người sắp chịu tội. Trời ơi! ước gì anh tôi quên.

Tôi chưa kịp lủi thì anh tôi đã họp lũ trẻ lại, thách vào trong túp lều, đánh nhau với ma.

Sách cũng có đấy. Hình như giời sinh ra anh chỉ để làm khổ tôi. Anh quay ra nhìn tôi, nói: "Xem chừng ở đây lại chỉ có Tíu là bạo nhất. Quỷ nó còn chả sợ nữa là ma".

Tôi tìm cách thoái thác:

- Cuộc thi phải có thưởng.

- Một xu nhé? - Anh tôi hỏi.

- Một xu thì chả bõ.

- Thế bao nhiêu?

- Một hào. - Tôi chắc không khi nào anh tôi chịu bỏ ra một hào.

Như thế cuộc thi sẽ hoãn và tôi cũng không đến nỗi mất thể diện.

Chẳng ngờ anh tôi nhận lời ngay.

Làm thế nào? Đành nhắm mắt bước liều vậy. Trong nhà ba gian xiêu vẹo, tường vách kín như bưng. Và hôi hám và ẩm thấp, lạnh lẽo, rùng rợn như một nhà hầm chứa... ma. Tôi chưa kịp định thần thì hàng chục con đom đóm lập lòe bay loạn xạ. Không biết anh tôi bắt bỏ vào từ lúc nào? Con nào con ấy như sấn lại tôi, khiêu khích. Tôi liều mạng, đấm đá, quay tít đi mấy vòng, rồi chạy vội ra ngoài thở hồng hộc.

Anh tôi và lũ trẻ kêu lên: "Vừa mới thoáng một cái đã ra. Không được! Thua cuộc rồi!

Tôi làm ra mặt giận dỗi, vừa nói vừa lảng đi chỗ khác: "Tôi biết mà! Các anh đánh lừa."

Đêm ấy và luôn mấy đêm liền, tôi chiêm bao thấy toàn ma, và mắt con nào con nấy tròn xoe, đỏ như hòn than hồng. Con kéo lên ngực bóp cổ, con nhe răng nhọn như răng bừa, con lè lưỡi dài lê thê. Tôi thất đởm, kêu ú ú, hai tay ôm chặt lấy anh tôi.

Thầy tôi cho vì âm hư huyết ráo, bốc thuốc cho tôi uống. Thầy tôi biết thuốc. Me tôi vẫn mê tín, cho là bệnh nhà người, mua vàng hương đi lễ các đền miếu. Chỉ có tôi là biết rõ bệnh tôi, song vì lòng tự đắc quá mạnh, không khi nào tôi chịu thú...

... Tôi đã lớn, đã theo học năm thứ nhất trường Bảo hộ. Nhờ về khoa học tôi đã hiểu biết, đã quả quyết nói là không có ma. Và những ma trơi, những thần đất chập chờn, đuổi nhau trên gò đống, chỉ là chất lân tinh ở hồ, ao tù hãm bốc lên, gặp dưỡng khí trong khí giời, bùng cháy. Tôi hiểu biết thế. Nhưng tính tôi vẫn nhút nhát sợ ma, sợ quỷ như xưa.

Lắm đêm, ngồi một mình trong căn phòng vắng vẻ, đèn sáng hẳn hoi, tôi thấy rờn rợn, tưởng một vật ghê gớm như một con ma ở trên nóc nhà sắp rơi phịch xuống, hoặc ở xó xỉnh hay trước mặt sắp hiện lên để hại tôi. Rồi thần hồn nát thần tính, một con chuột khẽ động dưới khe hòm, một tiếng cú vẳng ngoài xa, cũng đủ làm cho tôi mất vía. Có khi chẳng cần phải c1910

Cánh Ðồng Hoa Dại



Cuối cùng, điều tôi không mong đợi đã đến. Nó đến nhanh hơn tôi tưởng. Ðến bất ngờ! Nó nằm trong cái bao màu hồng xinh xinh. Một mùi hương ngát lên khi tôi mở ra. TH, hai cái tên nằm cạnh nhau, hài hòa đến tuyệt mỹ...

Anh kể tôi nghe chuyến thực tập vừa qua, về những cái ngông của đám bạn rồi kết luận:
- Sinh viên Mỹ thuật tên nào cũng hơi điên điên đấy!
Tôi cười, dí ngón tay vào mũi anh:
- Anh có điên không?
Anh nắm lấy tay tôi, bóp mạnh.
- Anh cũng đang sắp điên lên này, em muốn anh bẻ gãy ngón tay em không?
Tôi la lên:
- Ui da! Má ơi cứu con! Có người điên đang bẻ tay con kìa!
Anh buông tay tôi, ngơ ngác nhìn xuống nhà dưới:
- Má đâu?
Tôi cười như nắc nẻ:
- Tỉnh rồi ha anh, người điên gì mới hù có chút xíu mà đã biết sợ. Má đi chợ rồi.
Anh cốc tôi một cái đau điếng:
- Mai mốt còn gạt anh như vậy, anh đánh đòn nghe không!
Tôi hiền dịu:
- Dạ em sợ rồi, mai mốt hổng dám nữa. Nhưng bây giờ thì...
Tôi nhanh tay véo tai anh thật mạnh rồi co giò chạy xuống sau nhà. Một lúc sau, hai tay hai ly nước chanh. Tôi nghiêm trang đi lên:
- Mời họa sĩ dùng nước ạ.
Anh vuốt tóc tôi:
- Có thế chứ, cô bé!
Tôi gạt tay anh làm ly nước sóng sánh:
- Không được kêu người ta là cô bé nữa. Người ta lớn rồi, sinh viên rồi chứ bộ.
Anh nheo mắt:
- Ồ, nghiêm trọng vậy sao, thưa nữ sĩ!
Tôi lại nhăn mặt:
- Không được chọc em nữa à nha. Em giận bây giờ đó.
Anh làm hòa:
- Thôi, thôi, được rồi. Không cô bé, không nữ sĩ nữa, mình huề?
Tôi im lặng, nghe lòng dịu lại. Một tia nắng lọt qua cửa sổ đậu xuống mái tóc bồng bềnh của anh. Bạn bè tôi thường bảo "Hậu của mày có mái tóc rất nghệ sĩ". Khuôn mặt anh có nét dịu dàng với nước da trắng, đôi môi đỏ, nét mày thanh tú. Khi chúng tôi đi với nhau, người ta thường bảo cặp này trông lạ. Tôi có nước da ngăm ngăm, khuôn mặt tròn với cái mũi nhỏ xíu, hênh hếch. Cái đầu ngông nghênh một mái tóc ngắn cũn. Một đứa bạn bảo tôi: Mày lúc nào cũng ngó ngoáy lia lịa như một con khỉ con. Rồi lại nhận xét: "Ðôi lúc, Hậu của mày trông như một hiền triết"...

Anh thường chạy xe rất cẩn thận chở tôi dạo trên những con đường rợp bóng cây. Nhiều lúc, tôi phát chán, hối anh chạy nhanh hơn, anh bảo:
- Em không thấy con đường này rất đẹp sao.
Tôi dấm dẳng:
- Em thích mình phóng nhanh. Gió ù ù bên tai, cảm giác thật tuyệt khi mọi thứ vụt qua.
Anh hỏi:
- Lúc nào em cũng chạy xe thế à?
Tôi vênh mặt:
- Vâng, sáng nào em cũng dậy trễ. Phải phóng xe thật nhanh mới kịp giờ, chứ đi như anh thì hết buổi học còn gì.
Anh dịu dàng như một bà mẹ:
- Chết, em chạy từ từ thôi. Ráng dậy sớm một chút. Xe cộ bây giờ đi ẩu lắm. Lỡ có chuyện gì thì sao...
Tôi sụ mặt:
- Anh trù em hả?
Anh cười:
- Ðâu có, anh chỉ nhắc chừng em thôi mà.
Tôi im lặng cắt đứt cuộc đối thoại. Một lần gặp nhau, cứ vui vẻ một chút lại có chuyện, mà nguyên nhân đa số là tại tôi luôn có ý kiến bất đồng với anh.

Tôi và Hậu quen nhau đã hơn một năm. Lần ấy, Lâm, anh họ tôi, là sinh viên đại học Mỹ thuật, dẫn tôi vào lớp ngồi mẫu cho anh vẽ chân dung. Không quen ngồi mẫu nên khi lưng cứng đơ, tôi rất khó chịu, cứ ngọ nguậy suốt khiến Lâm phải nhắc chừng luôn. Anh, lúc ấy cũng đang vẽ gần đấy, thấy tôi như vậy, cứ tủm tỉm cười hoài. Gần một buổi sáng mà Lâm chưa phác thảo xong bức chân dung. Tôi phát cáu:
- Thôi, em chẳng ngồi mẫu nữa đâu, mệt mỏi quá rồi.
Lâm cũng quăng cọ:
- Em cứ ngó ngoáy lia lịa như vậy làm anh không tập trung được.
Tôi không vừa:
- Chứ không phải tại anh vẽ dở sao!
Ðang há mồm đôi co với ông anh họ, tôi chợt sững lại khi thấy anh bạn của ông anh nhìn chúng tôi tủm tỉm cười. Tôi ngó xuống chân, bối rối nói với Lâm:
- Em về đây, bữa nào em kêu nhỏ Ðào đến ngồi mẫu cho anh. Nó hiền lắm, chắc là thích hợp hơn em đấy.
Lâm nhăn mặt:
- Chết anh rồi, bài sắp chấm mà anh chưa vẽ được gì cả. Hay là mai em đưa bạn em tới đây được không!
Tôi cười cười:
- Ðược, nhưng mà anh phải đãi em một chầu cơ đấy.
Lâm mừng rỡ:
- Ừ, ừ, ngay bây giờ anh sẽ dẫn em đi ăn.
Quay sang anh bạn lúc nãy, Lâm rủ:
- Ði với tụi này không Hậu ? Cũng đến giờ cơm trưa rồi.
Hậu lại mỉm cười:
- Ừ, thì đi.
Tôi nghĩ bụng: cha này bị "ma cười" hành sao mà nãy giờ cứ tủm tỉm hoài (?) Sau khi bức chân dung hoàn thành thì tôi và Hậu đã thân nhau. Nhỏ Ðào cũng rất thân với Lâm. Bọn tôi thành hai cặp tính tình trái ngược: Lâm quậy, Ðào hiền, Hậu hiền, tôi lí lắc. Cặp Lâm và Ðào có vẻ ngọt ngào, tình tứ vì nhỏ Ðào rất ngoan, Lâm nói gì nó cũng gật và chiều ý. Còn chúng tôi lần nào cũng chỉ vui được một lúc đầu, sau đó là tranh luận, cãi cọ rồi đến tôi giận dỗi còn anh thì ngồi im hút thuốc hoặc làm huề với tôi. Anh hơn tôi gần 10 tuổi nên rất rộng lượng. Tôi luôn cảm phục anh vì điều đó nên cuối buổi đi chơi, tôi lặng lẽ ngồi sau anh, chầm chậm ngắm dòng người xuôi ngược, lòng cảm thấy bình an và nhẹ nhõm.

Anh không có nhiều thì giờ cho tôi vì ngoài giờ học, anh phải đi chép tranh để kiếm sống. "Học Mỹ thuật tốn kém lắm". Anh thường bảo tôi như vậy. Mỗi lần lãnh lương, anh chỉ giữ một khoản nhỏ để tiêu xài, còn lại là đi mua màu hết. Học lớp sơn dầu, màu càng mắc hơn. Anh sống tự lập đã gần 10 năm. Trước đây, anh định làm thầy giáo nhưng rồi niềm đam mê hội họa đã kéo anh ra khỏi cái công việc mà theo anh là: công chức mẫn cán. Anh tâm sự với tôi: "Người ta sống phải làm được cái gì đó mãi mãi tồn tại, ngay cả khi mình đã chết đi". Phần lớn những buổi đi chơi hiếm hoi, anh lại dẫn tôi vào các gallery để xem tranh. Nhiều bức tranh, nhất là tranh trừu tượng cứ làm tôi hoa mắt lên, chẳng hiểu gì. Anh bảo" "Xem tranh không cần hiểu mà cần cảm nhận". Nhiều lần, anh chỉ cho tôi: Bức này của Picasso, bức này của Leonard de Vinci, của Titien, rồi Goya...Nhưng tôi thường lẫn lộn luôn. Có lần, tôi nhầm bức "Hoa Diên Vĩ" của Van Gogh là tranh của Picasso làm anh cười chảy cả nước mắt...

Trường tôi chỉ cách trường anh một khoảng đi bộ ngắm. Thỉnh thoảng, tôi rủ nhỏ Ðào sang chỗ anh vào buổi trưa. Nhỏ Ðào hay mắc cỡ: Nhìn mấy bức tượng ở tiền sảnh trường Ðại học Mỹ thuật, nó đỏ mặt. Tôi cũng hơi ngượng nhưng sắc tố của tôi lặn đâu hết nên má tôi không đỏ tí nào. Lâm rất thích thú khi thấy hai má Ðào ửng hồng. Hậu hỏi tôi:
- Em không mắc cỡ khi nhìn tượng khỏa thân hay sao?
Tôi rắn rỏi đáp:
- Vẻ đẹp thân thể con người được chiêm ngưỡng qua cái nhìn Nghệ thuật + Hình ảnh thì sao lại đỏ mặt. Chỉ khi nào có ý nghĩ vẩn đục thì mới xấu hổ.
Anh đồng tình:
- Ừ, cái đẹp thân thể con người là cái trác tuyệt.
Tôi tò mò nhìn anh:
- Thế anh có vẽ tranh khỏa thân không?
Anh nhìn tôi:
- Có chứ, đó là phần bắt buộc của chương trình học mà. Ðến lúc này thì tôi thấy hai má mình nóng ran.

Thời gian trôi. Tôi đã lên năm hai. Chương trình học nặng hơn, tôi không la cà nhiều. Anh cũng vùi đầu vào bảng màu, khung vải chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp. Những lúc gặp nhau, tôi và anh ít còn dịp để mà tranh cãi, giận hờn... Anh nói nhiều với tôi về ước mơ ngày ra trường. Anh sẽ lang thang một năm, đi khắp nơi để quan sát, để vẽ.
Tôi băn khoăn:
- Anh không lo gì cho tương lai sao? Một gia đình chẳng hạn?
Anh cười, nhắc lại câu nói ngày nào. Tôi ngắt lời anh:
- Lỡ anh không làm được gì để lại ngày sau thì sao?
Anh hứa sẽ vẽ cho tôi một bức tranh thật đẹp. Một cánh đồng hoa dại, tím chân trời. Những cánh bướm rập rờn, bầu trời bàng bạc tím, một cô bé với mái tóc tím tung bay. Tôi hỏi anh:
- Cô bé ấy là ai hả anh?
Anh vuốt mái tóc ngắn cũn của tôi.
- Dĩ nhiên cô bé với mái tóc dài rồi, không phải cái đầu ngắn này đâu.
Tôi vùng vằng:
- Không thèm. Anh đừng vẽ ai cả. Một cánh đồng đầy hoa bướm là được rồi. Mà sao lại là màu tím nhỉ?
Cuộc sống đôi khi không như người ta nghĩ. Thực tế làm cho những ước mơ sớm lụi tàn. Ra trường, sau một tháng tìm việc, anh được nhận vào làm giảng viên của một trường Mỹ thuật ở thành phố khác. Thỉnh thoảng về thăm tôi, anh đăm chiêu, ít cười. Tôi nhắc anh ước mơ ngày nào. Anh thở dài:
- Em còn nhỏ, chưa sống tự lập nên không biết đấy. Anh thì đã mười năm rồi. Gần nửa đời người rồi mà anh vẫn chưa có gì. Bạn bè anh phần lớn đã có sự nghiệp, gia đình, nhà cửa... anh phải bắt đầu thôi.
Anh ít về dần. Tôi hỏi tại sao? Anh bảo bận lắm. Tôi lờ mờ nhận ra có cái gì đó rạn nứt. Nhiều đêm, tôi không ngủ được vì nhớ anh. Nhớ đến quay quắt lòng. Sáng vào lớp, nhỏ Ðào hỏi sao mắt sưng thế.
Tôi nói dối:
- Chả sao cả. Hôm qua tao uống cà phê nên khó ngủ. Rồi anh Lâm bảo tôi:
- Hậu nó có bồ rồi, một cô kế toán chung trường, hơi lớn tuổi nhưng nhà khá giả. Ba má cô ấy hứa sẽ cho hai người một căn nhà sau khi cưới... Tai tôi ù đi, tôi cố nén nhưng nước mắt cứ trào ra. Anh Lâm an ủi: Thôi, bỏ đi em. Em còn nhỏ, tương lai còn dài.

Tôi vùi đầu vào học. Tôi nhận chỗ dạy kèm. Tôi đi làm thêm... Tôi bận rộn từ sáng đến hơn 9 giờ tối mới về đến nhà. Ngày tháng qua, tôi thấy mình già dặn, tim như chai lại, và rồi cũng dần bớt đau khi nghĩ về chuyện cũ. Ðến một hôm, tôi chợt nghĩ: anh đã chọn điều tốt đẹp cho anh và người anh yêu. Cuộc sống là một sự lựa chọn giữa điều này và điều kia. Rồi đây tôi cũng chọn được điều tốt đẹp cho chính mình...

Ðêm qua, tôi mơ một giấc mơ đẹp. Tôi thấy mình đang nhẹ nhàng chạy như lướt trên một cánh đồng đầy hoa: Những cánh bướm rập rờn, không chỉ một màu tím huyền hoặc mà cánh đồng rực rỡ nhiều màu sắc khác. Chợt một bụi hoa níu chân tôi lại làm tôi té sấp. Một cánh tay rắn chắc nâng tôi lên. Một giọng nói ấm áp: Bé ơi, dậy đi, bay lên nào. Tôi thảng thốt: Anh ư... Rồi bừng tỉnh.

Ngoài kia, mặt trời đang chiếu những tia nắng đầu tiên, ấm áp. Tiếng chú sáo trong lồng đang véo von. Tôi nằm im, chợt nhận ra đã lâu sao mình không cảm thấy và nắm bắt sự tuyệt diệu này. Tôi vùng dậy, kéo mạnh bức màn. Một làn gió ùa vào. Ánh ban mai như xua tan nốt cái màu tím huyền hoặc của giấc mơ đêm qua.


Bùi Thúy Hà
1684

Anh khờ



Khờ đi chợ mua một con bò. Mấy lâu mong ước, nay mới tậu được con bò, Khờ thích lắm, chăn dắt cả ngày. Bò chóng béo. Sợ kẻ chộm vào dắt mất, đêm đêm bò đã cột vào ràn (chuồng) rồi, Khờ còng cẩn thận vác chông đặt chặn cửa, nằm canh.
Nhưng Khờ vẫn để mất bò. Một đêm Khờ ngủ say kẻ trộm vào. Chúng khiêng chõng đặt nơi khác ròi bắt mất bò. Ðể trêu Khờ, chúng còn cạo trọc đầu Khờ.
Sáng dậy thấy mất bò, Khờ hoảng quá. Khờ tru tréo rồi chạy lung tung tìm bò. Khi đã mệt, soi gương, Khờ lại bảo: "A! Thằng trọc mất bò chứ không phải tao.".

401

Bài đăng phổ biến