Thứ Hai, 30 tháng 11, 2009

Đổ Dầu Vào Lửa



Bà vợ nổi tiếng hay chì chiết chồng, sau khi xỉ vả thịnh nộ hơn một tiếng đồng hồ, nhìn thấy chồng vẫn im lặng bèn hạ câu cuối cùng:

Ông muốn tôi câm điếc cho vừa lòng hả!

Ông chồng lơ đễnh nhổ râu, thủng thẳng đáp:

Tôi đâu dám mơ ước được cả một lúc hai phép lạ ấy!

2840

Thiên đường trong mắt... anh



1396

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009

Dại



Một anh chàng đi ngang một nhà nọ thấy có cô gái xinh đẹp đang bế trong lòng một con chó Nhật và tỏ ra rất âu yếm nâng niu con chó. Chàng liền nói to:

Ôi ước gì mình là con chó Nhật ấy.

Cô gái thản nhiên nói:

Vậy thì... Sủa đi!

2809

Viên Ngọc ẩn





Ông Tư thấm mệt gác cây cần lên chiếc thuyền nan, ngước mắt nhìn trời, miệng chửi đổng. Mẹ kiếp! Nắng dữ! Suốt 3 tháng liền chẳng một giọt mưa. Cứ cái kiểu này thì làm ăn mẹ gì đây!

Câu cá tràu ở trên con bàu Lâm yên này đã gần hai chục năm, ông tư chắt bóp dè sẻn, tuy không dư dả, nhưng cũng đắp đổi qua ngày. Đặc biệt năm nay trời hạn mãi, cá tràu chẳng chịu vầy tổ đẻ trứng. Sự tình cứ như thế này, ông không biết đào đâu ra tiền gạo nuôi đàn con nheo nhóc và bà vợ ốm đau mãi ấy! Ông Tư cảm thấy mệt mỏi rã rời nghĩ đến cái cảnh con thơ ngồi trên mui thuyền ngóng mắt chờ cha, vợ đau nằm trong xó xỉnh cầu nguyện cho chồng làm ăn gặp vận. Càng nghĩ ông càng buồn!

Ông chạnh lòng nhớ lại những tháng năm còn sống với bố mẹ. Bao nhiêu nỗi nhọc nhằn cay đắng vì lũ ông mà bố mẹ phải gánh chịu không một lời than thở. Tình thương ấy cứ gắn mãi trong lòng mỗi người cho đến khi mấy chị đi lấy chồng, ông lấy vợ, ở riêng. Tình mẫu tử thiêng liêng đã thấm mềm trong cơ thịt và với ông, nó như một sợi dây vô hình đã ràng buộc vào con thuyền lênh đênh, vào cái nghề cực khổ này. Bỗng tiếng tù và rúc một hồi dài kéo ông quay về thực tại. Con vịt mồi nằm trên sạp gỗ trố cặp mắt ráo hoảnh nhìn sang ông. Cây cần câu lưỡi vẫn buộc chặt trên thân. Ông thầm nghĩ: không lẽ hôm nay chẳng hơn gì hôm qua sao!

Mặt trời đã tròn bóng. Tiếng mái chèo lại bắt đầu khua bì bõm, lau lách trên mép bờ bàu. Cứ thế con xuồng lấn dần những gần cây số đường nước mà vẫn chưa bói ra mẻ nào! Bất chợt từ phía bên kia đám lùng, một cái vẫy ầm toé nước. Ông khấp khởi mừng thầm, lao nhanh xuống tới. Quả đúng như dự đoán. Một tổ cá vầy trong bụi cỏ to hơn chiếc nón. Trứng trắng đã ngả màu đen xạm dàn trải lên lớp màn đục. Ông đoán chắc là chúng sắp nở con. Cái nghề sống gần hai mươi năm ấy đã dạy ông biết chắc một điều: trứng sắp nở, bố mẹ nó sẽ tợn hơn nhiều, bất chấp cái chết để bảo vệ cho bằng được đàn con ra đời. Lòng ông rộn niềm vui. Tay ông buộc vịt, tra mồi mà đầu ông mải nghĩ đến cuộc đọ sức tuy không cân xứng về lực, nhưng tài mưu lược đôi bên có lẽ ngang tầm. Ông buột miệng quả quyết kêu lên: "Tao sẽ thắng vì lũ con tao đang cần chúng mày!".

Quả thực ông Tư đã thắng! Hai con cá tràu nằm sườn sượt trong lòng xuồng. Chốc chốc chúng ngoi đầu lên, vẫy đuôi đành đạch như cố tìm đường tẩu thoát để về với lũ con sắp ra đời của chúng, nhưng bất lực...

Ngôi nhìn cặp cá, ông Tư sắp sẵn trong đầu: một con bán đi lấy tiền đong gạo. Con cá mẹ lớn hơn làm thịt nấu cháo cho lũ con đánh bữa đỡ lòng qua những ngày đói khát. Sự dự tính tưởng chắc như cơm vào miệng. Ai ngờ, con cá đã trút hết vảy để lộ cái thân hình nõn bà, bà Tư sơ ý, đánh rơi xuống bàu, lẩn mất tăm.

Cơ sự đã thế ấy, hai vợ chồng và lũ con ông ngồi sững sờ nhìn nhau! Chết điếng!

Sáng hôm sau khi ông mặt trời thức dậy, như thường lệ, ông Tư tu một bát nước chè hầm, cho cần và vịt mồi vào xuồng rồi lướt sóng ra đi. Ông gặp tổ cá sớm hơn hôm qua. Trước mắt ông cái tổ con đen sạm cũng chỗ ấy, hôm qua, một con cá tràu thân trắng tợ bông đang lững lờ bơi qua bơi lại. Mắt ông hoa lên, ông dụi tay xem lại. Bất chợt ông thảng thốt kêu lên: "Chính nó rồi!". Trời ơi! Vượt mấy cây số đường nước với cái hình hài trơ trụi thế kia mà nó vẫn cố tìm về. Và về kịp, lúc những chấm cá tràu bắt đầu hiện li ti trên mặt nước. Lòng ông bàng khoàng! Tay chân bủn rủn! Không còn ham muốn gì nữa, ông đành quay xuồng lặng lẽ trở về...

Từ đó, trên cái bàu Lâm Yên này, không còn ai thấy bóng dáng con thuyền của gia đình ông Tư đỗ ở đấy nữa....

1841

Quyết định sớm cho kịp giờ đăng báo



Chàng thanh niên dáng vẻ buồn bã thất vọng, đứng trên thành cầu đăm đăm nhìn xuống dòng nước xoáy cuộn. Sau lưng anh ta, một phóng viên bồn chồn đi lại với chiếc máy ảnh trong tay. Cuối cùng, tay nhà báo sốt ruột xem đồng hồ rồi chạy lên nói với anh chàng chán đời kia:
- Này anh bạn, quyết định rồi thì nhảy sớm đi, chỉ còn có 3 phút nữa thôi đấy!
- Đối với tôi thời gian đâu có ý nghĩa gì?
- Nhưng chậm hơn thì anh sẽ không kịp lọt vào báo Tin tức buổi chiều đâu!
1746

Sao phải tới trường?



Buổi sáng, bà mẹ gọi con trai của mình dậy:

- Dậy đi con, tới lúc phải đến trường rồi.

- Nhưng tại sao con phải tới trường. Con không muốn tới đó đâu.

- Con đưa ra 2 lý do tại sao con không đến trường xem nào?

- Bọn trẻ ghét con và các thày cô giáo cũng ghét con.

- Những lý do ấy không chính đáng chút nào. Dậy ngay đi nào.

- Thế mẹ có thể đưa ra 2 lý do tại sao con phải tới trường không?

- Được thôi. Thứ nhất, con đã 52 tuổi và thứ hai, con là hiệu trưởng.
1336

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009

Giúp sống lại



Quan tòa hỏi bị cáo:

- Bị cáo, anh có biết là anh làm thuốc rầy dỏm đã hại biết bao nhiêu người không?

- Dạ thưa ngài biết ạ! Nhưng tôi đã giúp cũng không ít người sống lại.

- Bộ anh giỡn mặt với tôi à.

- Dạ không! Đó là những người dùng thuốc rầy của tôi sản xuất để tự tử ạ.921

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2009

Con Dao Trong Tâm



Tâm bình thế giới bình

Ngày xưa ở thành Xá Vệ nước Ấn Ðộ, đức Phật đến giáo hoá độ cho một gia đình kia, hai vợ chồng đều cá tánh tham lam độc ác, không biết tôn trọng đạo đức. Ngài liền hóa một vị đạo nhân, mang bình bát đến khất thực. Lúc ấy người chồng đi vắng, người vợ ở nhà, thấy vị đạo nhân vào liền mắng chửi ầm lên. Vị đạo nhân hiền từ nói:

"Tôi là người tu hành, chỉ xin ăn mà tự sống. Lòng chỉ mong gia chủ cho bát cơm để đỡ lòng, cớ sao lại mắng chửi tôi đủ điều thậm tệ như vậy".

Người vợ tức giận hét ngược lên, thì vừa người chồng về, trong tay sẵn cầm cao dao bén, chẳng nói chẳng rằng, người chồng lặng lẽ xông tới, định chém đạo sĩ. Bỗng một bức thành băng pha lê hiện lên, bao bọc người đạo sĩ, bức thành trong sáng, kiên cố, không có cửa, người chồng đến xô đập, đâm chém đủ cách cũng không sao chuyển được.

Người chồng liền nói: "Ông hãy mở mau cho tôi vào với".

Vị đạo sĩ trả lời: "Ðược, nhưng ông hãy quăng con dao bén đi đã".

Người chồng tự nghĩ: "Mình to lớn như thế này, còn người đạo sĩ bé nhỏ thế kia, mình dùng hai tay không cũng đủ giết chết vị ấy trong giây lát". Nghĩ đoạn, liền quăng con dao bén đi xa, nhưng sao bức thành pha lê vẫn nguyên như củ, người chồng tức giận hét lên:

"Tôi đã quăng con dao bén đi rồi sao ông không chịu mở cửa cho tôi vào".

Vị đạo sĩ đáp: "Không, tôi không có nói ông quăng con dao bén trong tay ông, tôi muốn ông quăng con dao bén trong tâm ông kia mà".

Người chồng giựt mình kinh sợ, nhận thấy vị đạo sĩ thấu hiểu tâm lý thầm kín của mình, nên đã bớt độc ác, cúi đầu lạy tạ, ăn năn hối lỗi. Bức thành pha lê kiên cố ấy bỗng biến mất, vị đạo sĩ hiện thành Ðức Phật, phóng muôn ánh hào quang chói sáng rực rỡ một phương trời, và ngay khi đó Ðức Phật thuyết pháp để hóa độ cho hai vợ chồng người ấy.


Hết
503

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2009

Tự hại mình



Một ngày nọ, thỏ tình cờ vớ được một khẩu súng. Nó thích lắm, xách súng đi tìm các loài thú khác để dọa. Thình lình gặp gấu đang trèo cây, thỏ chĩa súng và hỏi:

- Gấu, mày đang làm trò gì vậy?

- Tao đang lấy mật ong.

- Leo xuống mau! Không tao bắn!

Gấu vốn sợ súng đành loay hoay tụt xuống. Thỏ được thể quát:

- Ngồi vào gốc cây! Không ngồi tao bắn.

Gấu miễn cưỡng ngồi vào gốc cây. Thỏ thích chí quát tiếp:

- Gấu, mày ị đi! Không là tao bắn.

Hết sức giận dữ nhưng không có cách nào thoát, gấu đành cố rặn ra được mấy cục. Thỏ được nước lấn tới nữa:

- Gấu, mày bốc ăn đi!

- Không, tao không ăn.

- Không ăn tao bắn đó!

Đến thế này thì nhục quá. Gấu điên tiết nói liều:

- Thì mày bắn đi! Tao thà chết chứ không ăn!

Thỏ bèn bóp cò, nhưng rủi thay súng không nổ. Thỏ đứng chết trân, sau đó lắp bắp:

- Ông... ông gấu ơi!

- Gì?

- Để .. để đấy con ... con ăn cho.
2684

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2009

Đừng để mất vui



Sân sau của nữ tu viện, các sơ đang cười đùa hò hét tranh nhau một chiếc xe đạp. Quá ồn và ngứa mắt, Mẹ bề trên bước ra quát to:
- Các cô, có bé cái mồm đi không. Tôi mà lấy cái yên xe vào là mất vui đấy!
2398

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2009

Mẹo anh tham ăn



Có anh nọ đến chơi nhà bạn, bạn dọn cơm đãi, Anh ta ngon miệng, ăn năm sáu bát vẫn thấy thèm. Nhưng xới mãi cũng thấy xấu hổ. Bỗng có người gánh bưởi đi qua cổng, anh ta nẩy ra một kế, bèn nói với bạn:


- Bưởi ở đây to quá nhỉ! Ở chỗ tôi ấy à, chỉ to bằng cái bát này thôi!


Vừa nói vừa giơ cái bát không lên, cố ý để cho bạn thấy mà xới thêm. Nhưng chết nỗi, trong nồi không còn cơm nữa. Gặp phải anh bạn cũng hóm, biết ý khách, liền mỉm cười, đáp lại rất tự nhiên:


- Ấy, năm nay bưởi bé đấy, chứ như mọi năm thì quả nào quả ấy to bằng cái nồi này!


Nói rồi, xách cái nồi không, chìa cho bạn xem.

2575

Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp



Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ . Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi . Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được ai thăm viếng . Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn , vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom .

Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng :
- Bạch sư cụ , nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây . Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường .

Nhà sư ung dung , chắp tay đáp :
- Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước .

Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp :

- Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng . Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân . Âu cũng là duyên trước ....

Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi :
- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào ?

Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp :
- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi . Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra .... Và từ ấy, tôi chỉ tụng kinh Di Lặc .

Một người khách hỏi :
- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng ?
- Mô Phật . Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời ? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ . Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy : Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp . Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại . Nay cũng đã gần đến kỳ hạn . Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành . Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc . Nếu lời nguyện được ỵ, ấy là tôi sẽ đắc đạo .

Người khách thứ hai hỏi :
- Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi ?
- Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi . Bây giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần tụng của đêm nay . Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy ....

Đến đây, bữa cơm chay đã mãn . Khách mệt mỏi, xin ngả lưng . Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng . Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian . Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đăng đẳng ....


2.
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu :

- Tội nghiệp thay cho sư cụ già , quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ . Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời . Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối đạo . Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ ;
rồi sanh ra môn ra phái . Ấy là nguồn gốc của sự chi li. Nay rừng thiền đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy .

- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó , và nghĩ thêm rằng: Nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng?

Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe . Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe 999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán . Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ . Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu .... Rồi nó nghĩ : nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay?

Rồi con thằn lằn quyết định : Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn . Nó nghĩ được một kế: Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu . Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa .

Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn : bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ : hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình . Âu là xếp
kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy .

Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi . Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.

Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng :

- Loài nghiệt sức! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!

Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.

3.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:

- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều : bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng . Có dục vọng ấy là Tham ; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng
kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si . Có đủ Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời, cũng chưa bù được .

Tội ngươi lới lắm, phải rán tu luyện thât nhiều mới mong chuộc được . Vậ y ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một hột tro đó sẽ biến sanh thành một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ đượ quy nguyên, trở hiệp lại thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả .

Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy :

- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi . Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội đáng kể là mười .

Con thằn lằn lạy mà thưa rằng:

- Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc . Chẳng hay đệ tử có tội chi ?

Phật phán :
- Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người ? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín, nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại. Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao cho được. Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại ?

Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội :

- Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa , để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó .

Phật đáp :
- Ta cho ngươi được toại nguyện .

Hồn con thằn lằn vưà muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng :
- Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi ?

Phật đáp :
- Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh . Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại .

4
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số
người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật
chưa hề có lúc nào có một linh hồng bị trừng phạt phải đau
khổng đến thế .....

Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của
một trong hai người khách đã đến am thủơ nọ , mà câu
chuyện nghe lóm đã làm duyên cho mình mấy năm đau khổ .

Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn
:

- Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít , có hay đâu
tôi phải mang cái nghiệp vô định này . Đã trót làm ơn, xin
độ cho tôi đến bờ bến .

****

Hai ông khách đáp:
- Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bồng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự "đắc đạo" của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người ....

Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hoá triệu triệu người ....Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên ....
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
- Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chă"n là đi cùng đường, ắt có thể đến trước toà sen mà chầu Phật tổ. Vậy tôi xin cố gắng.

(Nguồn: Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, nhà xuất bản Sóng, Saigon, 1974)

[Sau này tác giả Hồ Hữu Tường viết lại đoạn cuối như sau:]

*****
Người đáp :

- Cái khổ của ngươi là ngươi đã phát tâm cứu độ muôn vàn
chúng sinh do những hạt tro mà đầu thai nên . Tâm ấy là lửa
thiêng . Nó đốt lòng ngươi, cưỡng lại mà cãi, sao cho
được ? Âu là , ngươi nghe theo nó mà hành cái hạnh ấy đi !

- Nhưng mà, làm sao bây giờ ?
- Bấy lâu nay, ngươi đã nghe tụng kinh . Kinh dạy bài học căn
bản là Bi . Ngươi phải có lòng Bi , mà thương muôn vàn hột
tro ấy !
- Tôi vốn thương nhà sư, mới dại dột mà làm cho nhà sư phát
nộ . Thì tôi cũng sẵn lòng thương những ai mà những hạt
tro ấy đầu thai nên .
- Tốt lắm ! Tốt lắm . Đã có Đại Bi, phải thêm có Đại Trí
. Muốn cứu độ muôn vàn hột tro ấy, ngươi hãy lấy Trí mà
tìm biện pháp nào để cứu độ chúng . Chớ tình thương mà
không có thêm phương pháp để thực hiện tình thương ấy,
thì tình thương chỉ là một sự than khóc sướt mướt và vô
bổ mà thôi .

Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ một lần
nữa . Nó phóng quang mà nhìn khắt trần gian, để kiếm xem
hiện nay, những hạt tro do các vị Kim Cang, La Hán tung rải đang
đầu thai nên gì . Lạ thay, những hạt tro này , bởi tiền
kiếp mắc tội Tham Sân Si nên chẳng được đầu thai làm
người, lại đầu thai là lũ chuột . Chúng không được sống
dưới thanh thiên bạch nhật ; ngày chúng phải chui rúc trong hang
; tối lén bò ra ăn vụng, ăn vặt . Thế mà chẳng được yên
thân, chúng bị một lão mèo to tướng, mắt sáng như sao, nhìn
thấy rõ trong đêm tối, vuốt bén như gươm, tay lẹ như chớp,
thêm thèm thịt chuột ăn bao nhiêu cũng không đã, lão mèo ngày
lừ đừ ngủ, để ban đêm rình chụp chuột mà ăn tươi nuốt
sống . Đời của chuột đã khổ rồi , mà bị lão mèo càng
thêm khổ não, lòng phập phồng lo sợ . Rút vào hang cả ngày
lẫn đêm, thì đói . Ló ra, thì sợ mèo chụp ăn . Hồn con
thằn lằn, thấy chúng chuột như vậy, thương cảm vô cùng .

5

Bỗng nhiên nó thấy lũ chuột tìm chỗ an toàn mà khai đại
hội . Nó bèn vận thần thông nhĩ, mà nghe lũ chuột nói với
nhau những gì . Nó nghe một con chuột cống khởi nói như thế
này :

- Hỡi đồng loại chúng chuột ! Đời của chúng ta khổ não
lắm rồi . Ngày ở hang để tránh người đập giết , tối
mới dám ló ra mà ăn vụng . Thế mà chồng lên cái khổ ấy,
chúng chuột ta còn gặp cái đại họa là lão mèo . Vì lẽ đó
mà tôi triệu tập tất cả lại , để bàn tính coi có cách nào
để thoát cái đại họa ấy chăng ?

Một chuột con, còn hăng tiết, hùng biện hỏi :

- Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết ! Chúng ta phải hiệp
bầy lại , một lượt tiến tới mà cắn mèo . Một mình mèo
làm sao cự lại cả bầy chuột ?

Một chuột già, mình đầy thẹo , kêu chít chít nói :

- Đừng có dại ! Đừng có dại ! Thuở tôi còn trẻ, tôi có nghe
theo luận điệu ấy . Chúng tôi có tổ chứa một bộ đội
chuột , đến mấy trăm con, xông tới mà toan cắn mèo . Thế
mà mèo chỉ quơ tay một cái , là ngủm một chuột . Mấy trăm
con chuột của bộ đội chết sạch . May mà tôi rán được.
đầy mình thương tích, thoát chết chạy về, cả tháng mới
lành . Kinh nghiệm của chuột già này, xin các thanh niên chuột
nên gẫm cho kỹ . Chớ liều lĩnh mà thiệt mạng , lại không có
chút kết quả nào !

Lời của chuột già như gáo nước lạnh làm dập tắt lửa hăng
của chuột con . Các chuột im lặng khá lâu, thì có một con
chuột nhỏ nhẹ nói :

- Chuột mà tranh đấu với mèo , thật là không nổi . Ta tránh
nó thì hơn .
- Đúng vậy !
- Phải lắm !
- Hay lắm!

Chuột kia nói tiếp :

- Muốn tránh mèo, ta phải nghĩ cách nào báo cho ta biết sự
hiện diện của mèo . Để ta tránh trước, khỏi sợ bị mèo
chụp . Cách ấy , tôi nghĩ rằng ta nên treo một cái lục lạc
nơi cổ của lão mèo . Lão đi đến đâu, lục lạc rung vang báo
tin cho chuột ta hay, mà lánh trước .

Hồn cho thằn lằn nghe kế ấy, thuật lại cho người nghe . Và
phê bình :

- Quả là Đại Trí !

Nhưng hồn con thằn lằn nhìn mãi, thấy lũ chuột im phăng
phắc, chẳng có chuột nào động đậy, chẳng chuột nào thốt
một lời, mà cũng chẳng chịu giải tán, cho chuột nào trở về
hang nấy . Hồn con thằn lằn hỏi người :

- Sao lũ chuột lại như vậy ?

Người đáp rằng :

- Bởi lũ chuột hèn nhát . Tuy kế là hay, song chẳng có chuột
nào có cái Dũng, dám đeo lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, để
tự cứu, mà cũng để cứu đồng loại . Có Bi mà không Trí,
là vô bổ . Có Bi và Trí mà thiếu Dũng, là vô hiệu . Bi,
Trí, Dũng là ba cái chân vạc , thiếu một chân ấy là vạc
nghiêng đổ đi .
- Làm sao bây giờ ?
- Ngươi muốn cứu chuột, ngươi phải làm chuột . Ngươi phải
đầu thai làm con chuột có Đại Bi mà biết thương đồng loại,
có Đại Trí mà biết đem lục lạc mang vào cổ của lão mèo, có
Đại Dũng mà dám hi sinh, liều mình, chẳng sợ mèo ăn tươi
nuốt sống , mang lục lạc xông đến gần lão mèo .

Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ lần nữa . Muốn cứu độ hạng nào, phải hoà mình vào hạng ấỵ Thích
Ca đã từ chối ngôi báu, vì Thích Ca muốn hòa mình vào chúng
dân, để cứu độ chúng dân . Hồn con thằn lằn muốn cứu
độ lũ chuột thì hồn con thằn lằn phải hòa mình vào lũ
chuột, đầu thai làm con chuột, về muôn vàn cạnh khía, thảy
đều không khác gì với giống chuột . Chỉ khác có một chút
xíu là trong tâm hồn của con chuột này có Đại Bi, Đại Trí và
Đại Dũng mà thôi . Có được đại ngộ ấy, thằn lằn ta
bèn đâu thai làm chuột .


6

Bởi là do con thằn lằn đâu thai, nên khi chuột ta sanh ra,
thì hình vóc còn mang máng giống con thằn lằn . Mẹ nó lầm
tưởng là rồng . Bèn đặt tên cho nó là Long Thử .

Long Thử lớn lên, có vẻ trầm ngâm, đạo mạo . Lời nó kêu
chít chít nào, nghe cũng có ý nghĩa u thời mẫn thế . Một
hôm nó gọi một bạn chuột lực lưỡng theo nó . Té ra, nó đã
gặp được nơi góc tàu ngựa , một cái lục lạc to bằng quả
trứng, nên về gọi bạn theo nó . Đến nơi, nó nằm ngữa ra,
ôm lục lạc vào lòng, và bảo bạn cắn đuôi mà kéo, như là
kéo xe vậy . Kéo nó tới đâu, thì tiếng lục lạc kêu lên
rổn rảng . Mà bạn nó, vì cắn đuôi nó mà kéo đi chỉ nghe
theo lịnh nó chít chít điều khiển, nên chẳng biết trước sẽ
hướng vào đâu, thành ra không sợ sệt chi . Long Thử ra lịnh
cho kéo đến lão mèo, tính đem lục lạc mà mang vào cổ lão
mèo, như trước kia, lúc nó còn là hồn con thằn lằn, nó đã
nghe nói vậy .

Nằm một góc, lừ đừ, lão mèo nghe vang tiếng lục lạc . Bèn
giương mắt nhìn, chẳng biết con gì, đầu chẳng thấy mặt
mũi chi, chỉ thấy một cái vòi quơ qua quơ lại, để tìm
phương hướng, lại có đến tám chân lại chổng lên mà nghỉ ,
mà kêu rống chẳng ngơi . Lão mèo quá sợ, nhảy phóc lên nóc
nhà, kêu "miao!" rất là kinh hãi .

Lũ chuột núp trong hang, nãy giờ thấy mèo rình, không dám ra .
Con nào đói thì mau mau đi tìm mà ăn vụng . Một số đông lại
bu quanh Long Thử , lên tiếng chê bai :

- Việc này có gì là khó ? Ai mà nằm ngửa ôm lục lạc chẳng
được ? Vì lối ăn cắp trứng ấy, chuột nào mà chẳng biết ? Chỉ vì mèo dại, thấy hai con chuột cắn đuôi nhau , lầm
tưởng là con quái gì, mà sanh ra sợ thôi !

Chẳng dè , nằm trên mái nhà, lão mèo nghe và hiểu tiếng
chuột, lão nhìn xuống, thấy quả là Long Thử ôm lục lạc, nằm
ngửa cho một chuột khác cắn đuôi; và cái mà lão lúc nãy
tưởng đâu là cái vòi quơ qua quơ lại, thật sự, chỉ là cái
đuôi chuột ! Lão vừa thẹn cho lão, vừa phục Long Thử đa
mưu, vưà phát ghét lũ chuột vô ân, đã buông lời chê bai kẻ
mới cứu mình khỏi nạn . Từ trên mái nhà, lão mèo phóng
xuống, mỗi một tay hay chân, sè vuốt mà móc họng một chuột .


7


Tất cả các chuột khác hoảng chạy tứ tán . Long Thử và
bạn nó cũng giựt mình , hoảng hốt chạy theo , chun vào hang mà
trốn . Chừng tinh thần định tỉnh lại lũ chuột bèn lập tòa
án chuột để mà xử Long Thử . Long Thử bị buộc tội là
Thử gian, làm chuột mà lãnh lịnh của mèo, hại loài chuột của
mình . Bằng cớ là bấy lâu nay, lão mèo mỗi lượt chỉ móc
họng được một chuột mà thôi; còn bây giờ, mèo và Long Thử
toa rập, để cho mèo giết một lần đến 4 trự chuột . Nếu
không nhờ Thử gian đồng lõa mà giúp , dễ gì mèo chụp một
lượt đến 4 chuột ? Lời buộc tội quá hữu lý như vậy ,
đủ bằng cớ thiết thực như vậy , dễ gì Long Thử đem tâm
tình của mình, một tâm tình vô hình, không biết tựa vào đâu
mà chứng minh, để nói rằng mình chỉ có lòng cứu độ loài
chuột, chớ chẳng có dạ phụng sự cho mèo để hại chuột ?
Long Thử bị kết án tử hình . Điều này nó dễ chấp nhận,
nếu nó phải đem cái chết của nó làm điều kiện, để cứu
độ loài chuột, mà nó quá thương yêu . Song cái bản án của
nó , "tội Thử gian", làm cho nó đau khổ vô cùng ; vì nó mang
một cái oan vô tận, không ai giải cho được .


8


Lòng oan của nó xung lên, thành một vùng trở lực, tận
đến cõi trời Đâu Suất . Ở cõi trần không thấy chi cả .
Còn ở trên kia, trở lực ngăn cho Thần Tiên không lui tới
được làm cho lưu thông phải nghẽn . Thần Tiên phải hội nhau
lại , tính làm sao cho việc đại bất công này được giải, thì
vũ trụ mới tuần hoàn theo trật tự . Bàn cãi rất lâu, Thần
Tiên tìm ra được một biện pháp, là bấy lâu nay, người ta
đếm mười hai chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi,
thân, dậu, tuất, hợi) , thì mỗi chữ này vốn là trừu
tượng, không có nghĩa gì; nhưng bắt đầu từ bây giờ, phải
cho loài người hiểu rằng chữ đứng đầu tất cả, là chữ
Tí, phải dành để cho Long Thử tượng trưng . Những đức
tánh quý báu của nó, mà đặt ra làm chủ tể cho luân lý, thì
vũ trụ mới vận hành điều hòa được .

Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết "tí là con chuột" .
Nhưng từ ấy nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo dài hoài; bởi loài
người chưa giác ngộ, cứ lầm tưởng chuột ấy là thứ
"chuột tham, sân, si" kia . Chừng nào, đứng đầu cho cuộc
vận hành của vũ trụ là con Long Thử, con chuột học được, và
hành được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra , nguồn Thanh Bình mới
khai được .

Nguồn: Tạp Chí Quê Mẹ, Paris
1667

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2009

Cũng vì ham bằng cấp tú tài



Gia đạo hai ông bà Lê Đức Nghĩa cũng khá, đủ chi dụng trong thời buổi gạo châu củi quế. Hai ông bà chỉ sanh đặng một gái tên Lê Thị Phi Tiễn, nhan sắc của cô tuy dòm cá cá chẳng lừ đừ, ngắm nhạn nhạn chẳng sa, chớ cũng dễ làm cho trai thiếu niên say mê một lúc. Niên kỷ cô đã hai tám lẻ một nhưng vì óc của cô đã nhiễm sự giàu sang nên cô chỉ ước làm sao cho cô có một người chồng xứng đáng làm ông này ông kia, có bằng cấp tú tài, tấn sĩ, cùng là cử nhân, v.v... mà lại giàu sang, ruộng cò bay thẳng cánh, thì cô mới chịu lấy làm chồng cô. Lạ thay hai ông bà cũng đã nhiễm sự ấy, cho nên cô Phi Tiễn mới giữ đặng một phần tư tưởng ấy.

Đến tuần cặp kê, có nhiều chỗ đi nói mà cô chẳng chịu, cô chê không có bằng cấp tú tài, mà lại nghèo nên cô không chịu, nhiều cậu thiếu niên tức lòng mới bày mưu này kế nọ đặng hại cô cho bõ ghét.

Thầy Hoàng Vô Tâm là một thầy trong bọn bị cô Phi Tiễn khinh rẻ, trù tính đặng một kế. Thầy mới năn nĩ ông Cò mi Ngô Minh Thẹo... Đặng mượn bằng cấp tú tài và xe Talbot Limousine của ông. Chiều lại thầy Vô Tâm mới cậy bà già gần bên nhà làm mai giùm thầy. Bà già cô Phi Tiễn hõi bà mai rằng:

- Chẳng hay thầy đi nói con tôi đương thời làm việc gì tại đâu, làm ông gì?

- Ông Cò mi đa, chớ chẳng phải chơi đâu mà hỏi thầy này thầy nọ, ông làm trên dinh Khâm sứ, có bằng cấp Tú tài, lương bổng mỗi tháng đặng một trăm ngoài. Cha mẹ ổng giàu có, nên ông đi làm đi bằng xe hơi.

- Đặng, có vậy thì tốt, nhưng ông là con một hay là con út?

- ổng là con một nên cha mẹ ổng cưng ổng lắm, chừng cha mẹ ổng chết thì ổng hưởng một mình ổng một cái gia tài rất lớn, một năm thâu huê lợi đặng chừng vài muôn, con gái của bà mà sa vào đó rồi thì tự do ăn xài, chớ khõi lo chi nữa hết.

- Cha, giàu dữ vậy lận, nhưng khoan đã để tôi hõi con gái tôi thữ coi nó chịu hay không. Hai a! (dạ)! Ra đây má biểu chút con.

- Thưa má kêu con ra có việc chi?

- Đây bà này tính làm mai cho con ông Cò mi nào làm trên dinh Khâm sứ đó con, vậy con chiệu hay không trả lời cho người ta biết đặng người ta mừng, con.

Bà già tiếp: - Nếu cô Hai đây mà chiệu rồi thì cô đòi chi ông Cò mi cũng sắm cho cô hết, ông giàu có lắm cô hai, chừng đặng cô rồi chắc là ông cưng cô lắm.

Cô Phi Tiễn còn dụ dự chưa quyết, bà già mới bồi thêm: - Ông Cò mi này là con một mà lại giàu nữa cô hai, thật cô có phước quá nên ổng mới thương cô, nên cậy tôi nói giùm. Cô Phi Tiễn nghe xong mới trả lời: "Thưa má, má định đâu thì con theo đó, chổ nào mà má ưng bụng thì con cũng vậy". Bà già nghe nói mừng thầm, mà má cô cũng vậy.

Bà già đặng việc, nên kiếu ra về, cho thầy Vô Tâm hay và biễu chiều mai qua coi mắt, thầy Vô Tâm qua nhà cô Phi Tiễn, hai ông bà và cô đều ưng bụng cả, định bữa chúa nhựt tới thì làm lễ cưới. Đám cưới cũng khá trọng. Thầy Vô Tâm mới làm hôn thơ hôn thú đàng hoàng. Bữa kia thình lình, thầy kêu vợ ra nói:

- Này mình, mình biết tôi làm việc ở đâu không? Làm ông gì?

- Mình khéo giã ngộ thì thôi.

- Ai đi giã ngộ với mình bao giờ.

- Thì mình làm ông Cò mi ở dinh Khâm sứ chớ đâu.

- Mình lầm rồi đa. Tôi làm ở nhà in Albert Portail ăn lương mỗi tháng đặng 35 ngàn bạc, cha mẹ tôi nghèo khổ chớ có phãi ông Cò mi, cò mơ gì đâu.

Đây này để tôi đi lấy ra cho mình coi, cái bằng cấp Tú tài này có phãi của tôi đâu, tôi mượn của ông Cò mi Ngô Minh Thẹo đây mà, với cái xe hơi cũng vậy, mình tin chưa?

Cô Phi Tiễn nghe nói ứ hự, mặt cô dàu dàu, việc đả lở ra rồi biết tính làm sao?

Thầy Vô Tâm cười và nói tiếp: - Hồi trước tôi đi coi mình mình chê tôi không xứng đáng, vậy chớ nay mình lấy ai đây, phãi lấy tôi hay không?

Cô Phi Tiễn ăn năn đã muộn rồi, hy vọng cũa cô đã trôi theo dòng nước. Sáng ra thầy Vô Tâm mới lại nhà cha mẹ vợ, gặp lúc ông già vợ đi khõi, nên thầy mới nói với mẹ vợ rằng:

- Má này, má chắc tôi giàu lắm phải không?

- Sao mà không chắc, con có xe hơi, con làm ông Cò mi.

- Má nghĩ sai rồi, tôi đương không có một đồng một chữ làm sao mà có xe hơi đặng, ấy là cũa tôi mượn cũa người ta với cái bằng cấp Tú tài đặng đi nói con má vậy thôi chớ nào có chi đâu, như má không tin thì má hõi lại con má thữ coi thì má biết.

- Con nói chơi hay thiệt vậy con?

- Thiệt chớ chơi đâu má. Tôi tên là Vô Tâm, má quên hay là nhờ vậy mà má mới gả con má cho tôi.

Bà già vợ nghe đến đây bắt dửng dừng dưng, chĩ ngồi thở ra mà thôi; thầy Vô Tâm mới nói:

- Thưa má con về!

Bà già chẳng nói một tiếng. Chừng ông về bà nói lại thì ông có vẻ buồn và nói:

- Con mình ra nông nổi này cũng vì ham bằng cấp tú tài.

Công luận báo,
Số 2110, ngày 6/7/31

1666

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2009

Điên Vì Đàn Bà



Vị giám đốc nhà thương điên dẫn một quan khách tham quan. Chỉ một người nằm trên giường hai tay ôm chặt một con búp bê vào lòng, vị giám đốc giải thích:

Trước đây ông này yêu một người đàn bà, nhưng bị bà ta bỏ rơi và lấy chồng khác nên y phát điên và cứ tưởng con búp bê là người yêu mình.

Đến một phòng khác, thấy một người điên bị xiềng xích hai tay, đang vùng vẫy bổ đầu vào tường tự tử.

Vị giám đốc lắc đầu nói:

Còn đây là anh chồng đã lấy bà ta.

2832

Người truyền giáo và vị Tù trưởng



Một người truyền giáo đã bỏ ra vài năm để chỉ bảo cho một bộ lạc thổ dân cách thức trồng trọt và xây dựng mọi thứ để tự cung tự cấp cho mình. Về sau, ông nhận ra rằng, ông chưa bao giờ dạy cho bộ tộc đó nói tiếng Anh. Vì vậy, ông gọi vị tù trưởng cùng đi bộ vào rừng, chỉ một cái cây và nói với vị tù trưởng: "This is a tree" (Đây là một cái cây). Vị tù trưởng nhìn cây và lẩm bẩm: "Tree". Người truyền giáo lấy làm hài lòng với câu trả lời đó. Họ đi xa hơn nữa và người mục sư chỉ một hòn đá, nói: "This is a rock" (Đây là một hòn đá). Nghe thế, vị tù trưởng nhìn và nói: "Rock". Mục sư thật sự cảm thấy hăng hái về kết quả đó. Khi ông nghe tiếng sột soạt trong một bụi cây bèn ngó trộm vào trong và nhìn thấy một đôi nam nữ đang quấn lấy nhau. Vị mục sư thực sự cảm thấy bối rối và nhanh chóng phản ứng lại: "Riding a bike" (Đang cưỡi xe đạp). Vị tù trưởng thoáng nhìn đôi nam nữ, lập tức lôi cây súng ra và bắn chết họ. Mục sư nổi giận và la hét vị tù trưởng rằng, ông đã tốn biết bao công sức để dạy cho bộ tộc như thế nào là văn minh và cách đối xử đúng với mọi người và tại sao anh ta có thể giết chết những người này một cách dã man như vậy? Vị tù trưởng lạnh lùng: "My bike".
2114

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2009

Bó Hoa Khô



Em đã bỏ tôi một buổi chiều.
Khi sương Đà Lạt đượm hương yêu.
Rơi lên vành lá hoen màu lệ.
Khóc hộ tình tôi lạnh đá rêu,...



Nước mắt chan hoà, Hùng thơ thẩn bên bờ hồ Xuân-Hương, một trong những địa điểm kỷ niệm giữa chàng và Hà. Ven hồ, hai cây thông cao vút, khẳng khiu. Cây này có cành nhỏ bé đan vào cành của cây kia, như cặp tình nhân nắm tay nhau ngắm hồ. Trên một gốc cây, ngang tầm mắt, hai chữ H lồng nhau được khắc sâu vào vỏ cây. Hình ảnh đó bây giờ chỉ mang lại cho người con trai mới hơn hai mươi ba tuổi nỗi đau buồn sâu đậm. Trong khoảnh khắc, Hùng thấy nước hồ Xuân-Hương mời gọi chàng thật tha thiết. Phải. Được thả mình cho chìm xuống đáy hồ chắc là thoải mái lắm, khi mà thể xác vô duyên không còn ngăn cản được linh hồn thanh thoát. Thịt da ngấm nước lạnh 10 độ của mùa đông, co cứng lại, rồi từ từ rữa nát. Linh hồn kẻ thất tình tan vào nước hồ để thu hút lại tất cả hình ảnh, âm thanh, hương vị yêu đương của chàng với người yêu đã từng được nước hồ chứng giám. Hạnh phúc biết bao ! Khổ đau sẽ hết. Tình yêu sẽ giữ được muôn đời.
Nhưng, cơn gió mát rượi từ đâu phào tới, làm Hùng tỉnh lại, cứu chàng thoát khỏi ý nghĩ điên rồ là sẽ hủy diệt thân xác vì một con người phản trắc. Hà đã vâng theo lời cha mẹ, tuân theo lý trí của chính nàng, lấy chồng là một bác sĩ có tương lai sáng lạn, hứa hẹn cuộc sống huy hoàng, bảo đảm chắc chắn. Nàng đã bỏ rơi không thương tiếc mối tình đầu đã dệt thêu nên biết bao dấu vết tình yêu của họ để nhập vào vẻ đẹp thơ mộng của xứ Đà Lạt. Hai cặp bàn chân sóng đôi nhịp bước. Những trao đổi yêu đương qua cử chỉ luyến ái đam mê, tiếng thì thầm thề nguyện, hơi thở quyện nhau hâm nóng một khoảng trời nhỏ bé của không gian giá lạnh. Tất cả các phong cảnh chứa chan vẻ đẹp lãng mạn của vùng cao nguyên này không trốn tránh được dấu vết tình yêu đó :
Nào là những phong cảnh ngoạn mục như Cầu Ông Đạo, hồ Lớn, hồ Than-Thở, Suối Vàng, thác Cam-Ly, Thung lũng Tình Yêu,... Nào là những địa điểm mang nhiều nét thực tế :
Từ Nhà Thờ Lớn nguy nga, chùa Linh Sơn, chuà Trúc Lâm cổ kính, dinh Toàn Quyền, dinh Bảo Đại, đại học Đà Lạt, ga xe lửa kiến trúc kiểu Tây phương với ba nóc hình tam giác đặc biệt, vô số căn nhà nổi lềnh bềnh san sát theo hình vòng cung trên sông La Ngà, chợ Trung Ương ban đêm lộng lẫy ánh đèn vàng rực chiếu lên cây tháp Eiffel ngạo nghễ, cho đến những khu làng thiểu số đơn sơ, tối tăm, tịch mịch ...
Tiếng nói mạnh và trong đượm âm sắc ra lệnh cất lên làm Hùng tỉnh hẳn :
- Ê ! Hùng ! Mày đi đâu làm tao tìm mãi, giờ mới thấy ? Đi có một mình sao ? Bồ tèo đâu rồi ?
Chưa kịp trả lời, đôi tai Hùng nhận thêm loạt âm thanh sắc bén :
- Thôi tao hiểu rồi. Bị bồ cho leo cây phải không. Cứ nhìn gương mặt sầu thế kỷ là biết ngay.
Hùng để cho Giao, người bạn trai thân nhất của chàng, nắm tay kéo đi, miệng nói tiếp :
- Này ! Bảo thật nghe. Tìm con khác đi. Đây thiếu gì em. Buồn chi cho tổn thọ ! Về đi !
Bốn câu thơ "thất tình" lúc nãy mờ đi trong tâm trí Hùng, nhường chỗ cho hàng loạt hình ảnh các thiếu nữ mà chàng đã gặp, ngoài đời cũng như tại chỗ làm việc của chàng. Hùng ra trường thành giáo sư Việt văn mới được vài tháng của một năm Ất-Tị. Nhiệm sở của chàng ở rất xa nơi gia đình cha mẹ anh chị em chàng trú ngụ. Cao Lãnh. Một tỉnh nhỏ có bụi đường hồng, nước kinh đục, dân quân quốc cộng sinh hoạt lẫn lộn. Chàng nhớ rõ buổi chiều hôm ấy, từ trường trở về nhà trọ, nhận được lá thư mỏng manh. Mở ra đọc để thấy toàn thân bàng hoàng như người lên cơn đau tim. Mồ hôi chảy giàn giụa trên mặt, khắp thân thể chàng, không phải vì hơi nóng của miền Hậu Giang mưa nguồn nắng lửa, mà bởi lá thư gửi đến chàng đúng vào thời gian cuối năm với những hăm hở sắp được nghỉ lễ, về thăm gia đình và người yêu. Mảnh giấy xé vội chứa đựng vài dòng nguệch ngoạc bằng nét chữ con gái,:
" ...Hà phải vâng lệnh song thân, lên xe về nhà chồng, cho trọn chữ hiếu. Vĩnh biệt mối tình đầu của tôi !...." Tạm biệt bầu trời miền nam vào mùa khô chan hoà ánh nắng, Hùng trở về vùng cao nguyên xanh tím trong muà đông giá lạnh. Bộ complet và khăn quàng len không làm chàng ấm áp khi chàng biết rõ rằng Hà đã thực sự cho chàng tuột dù một cách lạnh lùng trái với hình ảnh "thục nữ vu qui" do nàng tạo ra trong lá thư vĩnh biệt.
Sau bữa ăn trưa nuốt vội, Hùng xin phép bố mẹ, ra phố. Bố Hùng nhìn theo, chép miệng :
- Biết bao giờ vết thương lòng của nó mới hàn gắn được ?!
Vết thương lòng ấy rỉ máu, xót sa, loét rộng theo mỗi bước chân của Hùng đi sâu vào vòm trời kỷ niệm. Chàng thả bộ trên hè, rảo bước qua đường, lom khom leo giốc, rón rén xuống các bậc đá, như người mộng du lang thang trên khắp nẻo đường phố tỉnh cao nguyên quá quen thuộc này. Thị giác của chàng thu nhỏ lại, nhường chỗ cho những cánh hoa ký ức nở đầy hình ảnh, kể lại một mối tình bốc lửạ.. Thỉnh thoảng, Hùng không ngăn được cảm xúc, mấp máy miệng nói lên thành tiếng, một mình, chân vẫn bước khi nhanh khi chậm, hai tay trong túi quần,... Đâu đây, mấy khúc phim tình cảm riêng tư thoát ra khỏi ký ức, bay trong ánh sáng đục màu sương Đà Lạt,...
...

Đá rêu mòn nhẵn ghế Ninh Kiều,.
Em dẫn anh về đếm tiếng yêu,.
Cùng nhau ấp ủ mùi hương tóc,.
Nhuộm đỏ môi hôn dưới nắng thiêu,...



Hùng gặp Trúc-Đào vào ngày khai trường niên khoá 1967-1968. Nàng xuất thân giáo sư đệ nhất cấp ban Toán Trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ. Nhan sắc của Trúc-Đào rất mặn mà với mái tóc đen nhánh chấm ngang lưng, cặp mắt to nhiều lòng đen dưới đôi lông mày dài thanh thanh đậm nét, chiếc mũi cong có hai cánh khá nở nang trên hai lỗ mũi có nhiều đường gẫy, và cặp môi dầy mọng bôi son đỏ đậm. Thân hình nàng là cả bài thơ con gái chanh cốm :
cặp nhũ hoa sừng trâu như muốn đẩy tung làn vải áo dài trắng in hoa nổi cũng màu trắng bó sát cái bụng thon và bờ lưng ong mềm mại. Đàng trước, vải áo mềm phủ chiếc bụng lép nổi hình tam giác theo từng bước chân, phất phới ôm cặp đùi chắc nịch của nữ vũ công Tây ban nha, lấp ló đôi bắp chân thuôn thuôn kín kín hở hở trong lớp quần satin đen. Đàng sau, tà áo dài uốn éo nảy nhẹ trên cặp mông cong cong khiêu khích của gái tây phương. Mỗi bước chân đi của Trúc-Đào trên đôi giày da cao gót quai đỏ đẩy hai bờ mông khêu gợi đong đưa đều đều theo điệu vũ rumba ngắn gọn, thỉnh thoảng hất nhẹ gấu áo dài tung lên theo gió.
Trên con đường từ trường về nhà trọ, Hùng theo sau cách Trúc-Đào chừng mười thước. Chàng mải mê ngắm thân hình tuyệt mĩ cùng dáng đi lẳng lơ một cách thơ ngây của nữ đồng nghiệp.
Đến đầu phố dẫn tới nhà trọ của Hùng, Trúc-Đào rẽ trái vào phố giữa. Hùng theo bén gót, thấy Trúc-Đào đi vào nhà bà giám thị nhà trường tên là Ba. Trước khi biến hẳn vào trong khung cửa mờ tối, cô giáo trẻ đẹp quay lại, ban cho Hùng nụ cười đỏ tươi trắng bóng kèm theo cái nhìn tiết ra ánh đen nồng cháy.
Sáng hôm sau có buổi họp giáo sư lúc chín giờ. Đúng tám giờ ba mươi Hùng đến trước cửa nhà trọ của bà giám thị Ba. Trúc-Đào từ trong nhà bước ra, vẫn trình diễn đầy đủ nhan sắc, điệu đi, ánh nhìn, nụ cười hôm trước. Thêm vào đó, nàng cho đời được nghe tiếng oanh vàng bạo dạn cố hữu của gái miền nam vớI câu hỏi gửi thẳng cho Hùng :
- Anh kiếm ai ?
Hùng bàng hoàng, nhưng trấn tĩnh được ngay, cất tiếng của một ca sĩ đương thời nào đó :
- Chị Trúc-Đào muốn tôi kiếm ai cũng được.
Cả hai cùng cười giòn giã. Họ đi song song trên hè phố, tự nhiên như trên màn ảnh. Trúc-Đào vui vẻ nghiêng đầu, nói khẽ bên tai Hùng :
- Thôi. Anh Hùng khỏi cần kiếm ai nữa.
Hùng sung sướng, biết rằng Trúc-Đào đã để ý đến chàng từ hôm trước, khi ông hiệu trưởng Bình giới thiệu các giáo sư mới cũ tại phòng giáo sư. Từ hôm đó, các con đường đất, cây cối, bờ ruộng, vỉa hè phố, bờ sông, đều đẹp hẳn lên, vui khác thường, và thân mật vô vàn, vì in dấu chân, hình ảnh, mầu sắc, âm thanh của cặp trai tài gái sắc. Dân chúng như đồng loã với họ qua ánh nhìn, nụ cười, mỗi khi gặp cậu trai bắc cặp cô gái nam khả ái kia. Trên balcon nhà trọ trong đêm tối, trong lối nhỏ giữa hai hàng rào cây rậm rạp của khu cư xá công chức tỉnh Cao Lãnh giữa buổi trưa vắng vẻ, rồi ngoài bến Ninh Kiều trong bóng chiều Tây Đô, trên chiếc ghế gỗ dài sau trường Phan Thanh Giản, dưới hàng cây me kín đáo cạnh trường Đoàn Thị Điểm vào những ngày nghỉ. Đâu đâu cũng in dấu tình yêu bỏng cháy giữa thiếu nữ mới vào tuổi người lớn, và thanh niên vừa thoát khỏi cơn khủng hoảng của một mất mát tình cảm hãy còn vương mùi vị đắng cay. Cuộc tình kéo dài hai mùa thi có nắng Hè chứng kiến.
Cho đến một hôm, đầu mùa Hè 1969, khi gặp nhau tại bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tự nhiên như lần đầu nói chuyện với nhau, Trúc-Đào ngậm ngùi bảo Hùng, hai giọt lệ kim cương long lanh trong khoé mắt đen thăm thẳm :
- Trúc-Đào phải xa anh từ bữa nay !
Hùng gặp lại ngay được cái bàng hoàng thuả nào, khi bị bồ cho tuột dù. Không phải qua lời thư nhạt nhẽo, mà với âm thanh hình ảnh sống động xảy ra trước mặt. Chàng không nói được, chỉ biết nhìn Trúc-Đào bằng ánh mắt đỏ ngầu chứa đầy nghi vấn. Trúc-Đào quay đầu, lắc mạnh cho mái tóc mây loà xoà ôm trọn cặp vai tròn như muốn tặng cho chàng một nét khêu gợi cuối cùng.
Mắt nhìn ra xa, nàng đọc tiếp bản án :
- Anh biết không. Khi còn học tại đại học Cần Thơ, Trúc-Đào đã thầm yêu một ông thày. Đổi trường, học ngành giáo sư đệ nhất cấp, Trúc-Đào không gặp thày ấy nữa. Sau mấy năm vắng mặt, bữa nọ, Trúc-Đào tình cờ gặp lại thày khi đi qua mặt một căn nhà giữa tỉnh Cần Thơ. Thày đứng ngoài vườn, trong bộ áo bà ba giản dị, mà sao Trúc-Đào thấy thương quá !
Hùng nổi giận :
- Thôi ! Cô im đi.
Nói đoạn, Hùng quay ngoắt, đi nhanh về phiá đầu phố, gọi chiếc xe lôi, ra bến xe đò Cần Thơ ...
... ... ...

Tôi được nguồn thơ đã đổi vần,.
Yêu đương mở, đóng chẳng phân vân,.
Tại em cũng chỉ là con gái,.
Là quỉ, là tiên giáng cõi trần,...
 


Ra đến bến xe đò Cần Thơ, Hùng sực nhớ rằng chàng phải có mặt tại Trung Tâm Hội Đồng Thi Tú Tài toàn phần trong trường Phan Thanh Giản sáng hôm sau. Hùng thả bộ trở về trường thi, lên lầu một, nơi có lớp học rộng lớn tổ chức thành phòng ngủ lớn cho các nam giám thị kỳ thi Tú Tài sắp tới. Chàng uể oải tới ngồi xuống chiếc giường sắt có mắc sẵn mùng, bên cái tủ nhỏ đựng xắc hành lý của chàng.
Làm công tác giám thị phòng thi một cách máy móc, Hùng gần như người mất hồn. Cũng may là chàng không bị sai sót nào trong công việc tỉ mỉ này. Buổi họp cuối cùng của Hội Đồng Thi được tổ chức trước khi các giám thị tiếp tục đi tới các trung tâm chấm thi. Nam nữ giám thị gồm các giáo sư đệ nhất và đệ nhị cấp nhận giấy tờ để sau muà thi mang về nhiệm sở cho ban kế toán làm hồ sơ xin phụ cấp gác thi và chấm thi. Họ có thời gian ngắn ngủi trao đổi với bạn bè đồng nghiệp mới cũng như cũ. Hùng hơi trở lại bình thường một chút. Chàng ngồi uống nước gần một nhóm nữ giáo sư đang ríu rít chuyện trò. Một câu nói vui tươi hiền hậu đượm âm thanh nũng nịu yêu kiều, lôi cuốn chú ý của Hùng :
- Thủy-Tiên phải về Đà Lạt ngay. Có ai đi Sài Gòn, cho Thủy-Tiên nhờ một tí nào ?
Không ai trả lời. Các bạn gái của Thủy-Tiên cười khúc khích. Một người nói :
- Lời chào bán hàng của mày ế rồi !
Giọng nói của nữ giáo sư mang tên Thủy-Tiên càng thêm nũng nịu yêu kiều hơn :
- Đừng trêu chọc ! Tao khóc cho mà xem ! Có việc cần mới lên tiếng nhờ chứ. Có aị..
Thủy-Tiên ngừng hỏi. Từ phía bàn gần đó có một bàn tay giơ lên trong nhóm nam giáo sư.
Thủy-Tiên mừng rỡ, đứng dậy, tiến về chỗ người đã đáp lời kêu gọi của nàng. Đó là Hùng. Chàng mỉm cười nhẹ, thấy một thiếu nữ tầm thước, mặc áo dài xanh thêu hoa trắng trông phảng phất dáng một nữ sinh. Tóc nàng cắt ngắn, uốn cao. Đôi mắt đen láy thông minh. Chiếc mũi xinh xinh trên cặp môi kẻ son nhẹ mầu san hô với cánh môi trên hơi cong lên trông rất đáng yêu. Làn da trắng mịn bao phủ khuôn mặt trái soan có chiếc cằm rất tài tử với phần giữa hơi lúm xuống. Hùng chưa kịp ngắm nốt thân hình thon thả với làn ngực nhô lên mang nét trinh trắng, Thủy-Tiên đã đứng sát bàn, tay cầm một bao thư khá dày dán kín, miệng chúm chím làm duyên và ánh mắt nồng nàn cầu khẩn, làm tâm hồn khô héo của người con trai mới mất người yêu như được truyền nhựa sống.
- Dạ, thưa anh. Thủy-Tiên nhờ anh chuyển lá thư quan trọng này cho một ngườI quen ở Sài Gòn.
Địa chỉ ghi trên mặt thư. Có được không ạ ?
Không trả lời câu hỏi, Hùng nói nhỏ :
- Chị cũng ở trên Đà Lạt à ?
- Vâng ạ. Còn anh ?
- Gia đình tôi ở trên đó.
- Anh bằng lòng chuyển thư này hộ tôi nhé.
Hùng gật đầu, tay cầm lấy lá thư to và hơi nặng, mắt ngước nhìn Thủy-Tiên. Khi nàng nhìn trả lại bằng ánh mắt vô tội, chàng cúi xuống đọc tên và địa chỉ người nhận ở mặt trước, rồi tên và địa chỉ người gửi ở mặt sau. Chàng lại ngước lên, mỉm cười :
- Hy vọng sẽ gặp lại chị ở Đà Lạt, sau kỳ thi này.
Thủy-Tiên nhẹ nhàng gật đầu, rồi quay về bàn với các bạn. Mấy nữ giáo sư từ nãy cùng im lặng theo dõi hai người lúc bấy giờ mới nhìn nhau, nhướng cặp lông mày một cách đầy ý nghĩa.
Thủy-Tiên chẩu đôi môi đỏ :
- Sao ?
Những chuỗi cười vui tươi vang lên như đồng lõa với niềm vui mới của Hùng,...
Thủy-Tiên về với gia đình tại vùng cao nguyên Đà Lạt, hưởng nốt những ngày Hè tươi mát yên tĩnh, tránh xa bụi đỏ, nắng vàng cùng náo nhiệt của miền Nam. Nàng gặp lại các bạn gái chơi từ thuở bé. Hà là một bạn cố tri của Thủy-Tiên. Trong lúc hàn huyên, Hà chợt hỏi :
- Lá thư tao nhờ mày chuyển đến bà cô tao ở Sài Gòn, mày đã chuyển chưa ? Trong bao thư có vài thứ quan trọng mà tao không muốn gửi qua đường Bưu điện.
Thủy-Tiên vui vẻ đáp :
- Tao nhờ một đồng nghiệp chuyển giùm.
- Sao thế ?
- Tao xin nghỉ chấm thi, lấy cớ bị mệt và có giấy bác sĩ cho. Sài Gòn nóng nực ồn ào quá ! Mày đừng lo, anh giáo sư đồng nghiệp của tao hào hoa, cẩn thận lắm. Hôm kia, tao nhận được thư của anh ấy từ Sài Gòn gửi lên thăm và báo tin đã làm xong "nhiệm vụ".
- Quen lâu chưa ?
- Mới quen trong Hội Đồng Thi Phan Thanh Giản thôi.
- Ông ấy tên gì ?
- Lý quốc Hùng,...
Hà giật mình, mở to hai mắt, rồi phát nhẹ vào vai bạn :
- Lý quốc Hùng, giáo sư Việt văn Trung học Kiến Phong phải không ?
Thủy-Tiên cũng giật mình, mở to đôi mắt nhung, phát nhẹ vào vai bạn :
- Trong thư hỏi thăm, anh ấy cũng tự giới thiệu như thế. Có gì quan trọng không mà mày làm tao hết hồn ?
Hà thở phù theo kiểu tây phương, lắc đầu, nhìn bạn bằng đôi mắt hơi nghiêm :
- Anh ấy là bồ cũ của tao. Đẹp trai, ăn nói duyên dáng bay bướm lắm,...
Thủy-Tiên ngắt lờI bạn :
- Thế sao mày lại cho anh ấy tuột dù ?
Hà nghiêm trang :
- Anh ấy có người bạn trai tên là Giao. Anh ấy quí bạn hơn bồ, lại hay nghe lời anh bạn đó. Tao chịu đựng khá lâu, cuối cùng phải "Adieu". Mày coi chừng đó.
Thủy-Tiên cười hồn nhiên :
- Có gì đâu mà coi chừng. Lòng tao như tờ giấy trắng. Đừng lo.
... Tâm hồn trinh trắng ấy dần dần bị tơ vương ám ảnh như một định mệnh. Hùng theo sát Thủy-Tiên như bóng ma ám ảnh người trần. Cần Thơ, Sài Gòn, Đà Lạt. Những con đường rợp bóng cây thơ mộng. Những quán nước rạp ciné phố phường lộng lẫy. Những buổi chiều hây nắng trên ghế đá bến Ninh Kiều,... Tất cả dần dần ghi ngày càng đậm đà hình ảnh âm thanh hương vị của cặp trai gái Quốc Hùng và Thủy-Tiên. Tất cả những viên gạch diễm tình đó như chồng chất ngày càng bề bộn trước cửa nhà trọ của Thủy-Tiên tại nhiệm sở Cần Thơ. Rồi một ngày định mệnh, trước áp lực của những đợt tấn công tình cảm tung ra bởI chàng trai đa tình, cánh cửa bảo vệ trinh nữ bật mở lần thứ nhất. Hùng được Thủy-Tiên mời lên căn phòng trọ xinh xắn, ngát thơm hương trinh. Tuy nhiên, kháng cự cuối cùng của người con gái chưa biết yêu đã được nền giáo dục kỹ lưỡng của gia đình trợ giúp hữu hiệu. Tấn công điêu luyện của người con trai dầy dạn trong kinh nghiệm đau khổ của tình yêu đã bị chặn lại trước ánh nhìn vô tội, giọng nói đoan trang, tiếng cười ngây thơ của cô gái Việt con nhà giòng dõi trâm anh. Căn phòng vắng nhờ vậy chỉ chứng kiến mối giao tình thanh khiết mà thôi. Cho đến một buổi sáng Chủ Nhật của vùng Tây Đô thiếu nắng.
Hùng ngồi trước cái bàn nhỏ đối diện vớI Thủy-Tiên. Chàng ngửa hai bàn tay lên mặt bàn, nhìn nàng, tha thiết nói :
- Thủy-Tiên ơi ! Nếu em bằng lòng cho anh suốt đời được tôn thờ em là người yêu muôn thuở, người vợ đời đời, thì em hãy đặt hai bàn tay em vào lòng bàn tay anh đi.
Như bị thôi miên, Thủy-Tiên từ từ nhấc hai bàn tay đang ấp trong cặp đùi ấm áp, nhẹ nhàng để gọn gàng vào lòng bàn tay rộng rãi nóng bỏng của Hùng. Hai giọt lệ ngà dâng lên trong đôi khoé mắt nhung vừa cảm động vừa nuối tiếc cho làn hương trinh mong manh quí giá đã bị bóc ra khỏi tâm hồn người con gái, lần đầu bị tình yêu khuất phục làm xụp đổ chiến lũy giáo dục gia đình !
Tình yêu tháo cũi xổ lồng với cử chỉ đầu dựa đầu, má kề má, tay nắm tay, rồi thân thể áp chặt vào nhau không muốn rời. May sao, các cử chỉ luyến ái đưa cảm giác trinh nữ lên cao không đạt tới tột đỉnh khoái cảm được. Đó là cái may mắn cuối cùng của Thủy-Tiên. Nàng kiên quyết yêu cầu người yêu hãy dành nụ hôn đầu tiên cho đêm Tân Hôn. Hùng đành nghe theo, trong lòng quặn vài chói buốt khi hình ảnh Hà và Trúc-Đào thoáng qua, phũ phàng rứt đi từng mảnh linh hồn chàng, mỗi khi linh hồn ấy không được thoả mãn trong tình yêu. Cảm tưởng đó xảy ra với Hùng kể từ khi chàng bị thất tình lần sau cùng với Trúc-Đào.
 


Em như một đoá thủy tiên sầu,.
Chuốc về rồi bị bỏ quên mau,.
Bơ vơ trong góc vườn khô đất,.
Lặng lẽ theo năm tháng đổi mầu !
 


Rồi đêm Tân Hôn đến, cũng lại như một định mệnh, với Thủy-Tiên và Quốc Hùng. Sau bữa tiệc cưới linh đình giữa hai họ và thân hữu, chú rể đưa cô dâu trên chiếc xe hơi dăng hoa lộng lẫy về ngôi nhà của đại gia đình họ Lý gồm bố mẹ và một số anh chị em của Hùng còn độc thân hoặc đã có gia đình nhưng chưa đi ở riêng. Cô dâu chú rể chiếm một căn phòng khá rộng, trần thiết thật đẹp mắt tiện nghi, ở trên tầng hai. Trong căn phòng cửa đóng chặt, Thủy-Tiên và Hùng ngồi trên bờ giường nệm trắng tinh, nhìn nhau say đắm. Hai má cô dâu đỏ hồng vì còn e thẹn. Mặt chú rể đỏ ké vì men rượu. Hùng nở nụ cười chiến thắng với hai hàm răng trắng phau, cất giọng mạnh dạn :
- Em nợ anh nhiều lắm đấy nhé ! Đêm nay, hai ta hãy yêu nhau hết mình, bù lại những ngày tháng dài dằng dặc đè nén khát khao để tuân theo lễ giáo.
Thủy-Tiên càng e thẹn hơn, nhìn chồng không nói. Hùng phải bắt đầu mọi thứ, biến đổi cô gái trinh học giỏi mà thiếu kinh nghiệm thành người đàn bà chập chững những bước đầu tiên về nhà chồng. Đêm động phòng trôi qua, Thủy-Tiên tỉnh dậy lúc sáng sớm, nằm bên chồng, suy nghĩ :
- Mình đã trao trọn trinh tiết cho Hùng về thể xác, mà sao tâm hồn không thấy gì thay đổi cả ?
Mình vẫn yêu Hùng như hằng yêu. Lấy chồng là như thế này ư ?
Thủy-Tiên lặng lẽ để Hùng nằm ngủ, nhẹ nhàng rời giường, vào phòng tắm trong bộ y phục nguyên thủy. Nàng tắm gội kỹ càng hơn thường lệ, lau khô người, khoác áo tắm, trở vào phòng ngủ. Dưới ánh rạng đông của một ngày, Hùng đang ngồi chống tay xuống giường, nhìn những vết máu vương trên nệm trắng. Thấy vợ, chàng cười sung sướng, giơ hai tay về phiá vợ. Thủy Tiên lại gần, ngồi xuống giường cho chồng ôm lấy nàng, miệng nàng thủ thỉ :
- Mình được gần nhau trọn vẹn trong tuần trăng mật, phải không anh yêu ?
Hùng ôm chặt vợ hơn, nói như hứa hẹn :
- Chứ còn gì nữa, người vợ, người yêu của anh !
Lời hứa rơi vào hư không với sự xuất hiện của Giao, bạn trai cố tri của Hùng. Giao từ đâu gõ cửa, vào chào bố mẹ Hùng, bước lên cầu thang đến gõ cửa phòng Hùng như thường lệ, mặc dù anh đã có mặt trong đám cưới của bạn tối hôm trước. Giao kéo Hùng ra khỏi nhà, để Thủy-Tiên một mình trong phòng vắng. Nàng chờ một lúc lâu, bèn xuống nhà, chào bố mẹ chồng, rồi xuống bếp dùng bữa quà sáng đơn sơ với một cốc nước cam vắt sẵn để trong tủ lạnh. Đó là chỉ dẫn chớp nhoáng của Hùng trước khi theo bạn ra ngoài. Bữa cơm trưa rụt rè ăn chung với gia đình nhà chồng. Bữa cơm tối hoang mang, vì vắng mặt Hùng. Ban đêm trằn trọc một mình với biết bao thắc mắc. Nhưng nàng vẫn hy vọng với tất cả sự hiền thục của cô gái đã được dạy dỗ chu đáo trước khi về nhà chồng.
Hy vọng đó khô héo dần như bông hoa thiếu nước. Hùng vắng nhà luôn ba bốn ngày. Khi trở về, chàng không nửa lời giải thích với cả gia đình lẫn người vợ mới cưới. BởI vì chàng đã được Giao "giải thích" nhiều lần :
- Bạn là thủ túc. Vợ là y phục. Thiếu chân tay, cậu không tung hoành được. Thiếu quần áo, cậu có thể mượn hoặc mua cái khác. Nghe rõ chưa ?
Thủy-Tiên đi từ ngạc nhiên sang thất vọng, từ thất vọng sang giận hờn. Vốn là nhà mô phạm luôn luôn được biết bao thanh niên thiếu nữ ngồi ngước mắt nhìn lên, kính cẩn nghe giáo sư giảng bài, Thủy-Tiên lặng lẽ thu xếp đồ dùng vào chiếc valise nhỏ. Chờ đến hết nghỉ phép, nàng lễ phép từ giã gia đình nhà chồng, trở về nhiệm sở Cần Thơ, tiếp tục dạy học, và không đệ đơn xin thuyên chuyển lên Đà Lạt như đã dự định với Hùng trước đây. Cuối tuần, nàng không trở về Đà Lạt như đã hẹn với Hùng. Trong khi ấy, Hùng cũng trở về Cao Lãnh dạy học, đồng thời xin thuyên chuyển gấp về Đà Lạt vì lý do gia đình. Cuối tuần, chàng đi xe đò về nhà bố mẹ. Không thấy Thủy-Tiên, lúc đầu Hùng tỏ vẻ không cần. Suốt mấy ngày nghỉ, chàng đi chơi với Giao một cách vui vẻ. Tình trạng này kéo dài cả tháng.
Trong khi ấy, Thủy-Tiên ở Cần Thơ gặp tai nạn. Chuyện xảy ra thật nhanh và bất ngờ. Đầu tháng sau ngày cưới, nàng bị tắt kinh. Bác sĩ sản khoa cho biết nàng có thai. Rồi một hôm đang đi ngang qua con lộ, nàng bị một xe xích-lô đụng ngã xuống đường. Tối hôm đó, nàng bị ra huyết.
Mang khẩn cấp vào bệnh viện, người ta cho biết nàng bị xảy thai. Nàng phải nằm bệnh viện một tuần lễ. Trong khi ấy, Hùng được đổi lên Đà Lạt. Chàng bắt đầu sốt ruột về sự vắng mặt của Thủy- Tiên. Kể từ ngày Thủy-Tiên giận dỗi bỏ xuống Cần Thơ, không chịu trở về gặp chồng mỗi cuối tuần, hai người chỉ thỉnh thoảng gửi cho nhau lá thư ngắn trong viết vắn tắt những điều cần thiết.
Cuối cùng, Hùng quyết định xin nghỉ dạy vài ngày, xuống Cần Thơ tìm gặp vợ tại phòng trọ cũ nơi hai người hẹn nhau trong thời gian mới quen nhau. Lúc bấy giờ Hùng mới biết Thủy-Tiên xảy thai và nàng đã không xin thuyên chuyển lên Đà Lạt như dự định. Khi gặp nhau, mặc cho Hùng năn nỉ hết lời, Thủy-Tiên chỉ nhắc đi nhắc lại một câu :
- Nếu anh muốn em xin thuyên chuyển gấp lên Đà Lạt, anh phải hứa với em là bớt giao du với người bạn trai vô lương tâm, chuyên môn xui anh bỏ thí vợ, rong chơi với họ tối ngày.
Giọng nói của nàng vẫn yêu kiều diễm lệ, nhưng mất hẳn âm hưởng nũng nịu thuở ban đầu.
Nàng vẫn nhìn chồng bằng cặp mắt đen láy, mà tiếc thay, cặp mắt đó không còn tiết ánh nồng nàn cầu khẩn nữa !
Cuối cùng, Hùng long trọng hứa :
- Anh sẽ để em lên trên tất cả các bạn bè của anh.
Em biết rằng anh bị yếu lòng, Như chuyện Thạch Sanh với Lý Thông, Thương con, em cố quên lầm lỗi Cố sống cho qua kiếp vợ chồng !
Việt Nam Cộng Hoà mất vào tay cộng sản. Hùng và Thủy-Tiên chung số phận với dân miền Nam sống nheo nhóc cho đến năm 1978. Trong thời gian đó, Thủy-Tiên cực khổ về vật chất, nhưng tinh thần được yên lành. Nàng có bầu, sinh ra một đứa con trai. Giao biến mất khỏi Đà Lạt.
Một hôm, đi dạy học về, Thủy-Tiên thấy Giao đang ngồi chuyện trò vớI Hùng. Nàng chưa kịp phản ứng, Hùng đã đứng lên, kéo tay vợ, nói nhỏ vào tai nàng :
- Anh Giao tìm được đường chạy tầu. Anh ấy đến rủ mình đi chung. Tuần tới, mình thu xếp quần áo tiền bạc, xin giấy phép phường khóm vào Sài Gòn thăm họ hàng, rồi lén đi xuống Hà Tiên. Anh Giao sẽ chờ mình ở đó.
Thủy-Tiên và Giao lạnh lùng nhìn nhau. Nàng khẽ nói :
- Tiền bạc đâu ra mà đi, hở anh ?
Hùng nói nhỏ :
- Bố mẹ anh còn dấu cất vàng để sau này chia cho các con. Anh sẽ năn nỉ hai cụ đưa ngay cho mình phần của anh.
Thế là hai vợ chồng rời Đà Lạt xuống Hà Tiên. Họ lên chiếc tầu đánh cá sau khi nộp vàng cho chủ tầu cũng ở trong số người đi trốn. Trên tầu chật ních người. Gia đình Thủy-Tiên ngồi một góc tầu tối tăm bẩn thỉu, cạnh cái bục gỗ rộng một thước, đài hai thước. Tối đầu tiên ngoài biển, gió lạnh, sóng dập dềnh, Thủy-Tiên cùng con trai leo lên bục gỗ nằm cho cao ráo. Hùng ngủ ngồi ngay cạnh bục. Đến đêm, Giao từ trên đi xuống, lại gần bục gỗ, nói trống không :
- Nằm sát vào trong cho ngả lưng chút đây ! Mỗi người quay đầu một phiá. Đến nước này, giữ ý tứ làm gì cho mệt !
Thế là Thủy-Tiên phải ôm con nằm bẹp vào thành tầu, mặt gần kề đôi bàn chân to xù xì như chân khỉ đột của Giao. Thỉnh thoảng gió đêm từ trên thổi lồng xuống, cho nàng ngửi mùi chân thum thủm quện vị tanh tanh của biển cả. Hùng không nói một lời. Ban ngày, cứ bữa ăn là Giao sà tới, ăn ké với gia đình Thủy-Tiên, lấy cớ đi vội không chuẩn bị lương thực. Bữa ăn chỉ có cơm nắm muối mè và nước lã. Qua ba ngày, tầu vẫn lênh đênh ngoài biển. Lương thực gần cạn. Cả tầu lao nhao, lo ngại. Thủy-Tiên và Hùng phải bớt phần ăn của họ, nhường cho con nhỏ. Giao vẫn đến đòi ăn, và ăn nhiều. May sao, đúng lúc cả tầu cạn lương thực và nước uống, họ được tầu ngoại quốc chạy qua tiếp tế, rồi kéo tầu vào bờ biển Nam Dương. Thủy-Tiên thoát cái nạn ban ngày ôm bụng đói, ban đêm nằm chung bục gỗ với bạn trai của chồng và ngửi mùi chân của hắn, với tất cả hận thù ghê tởm !
Được Mỹ bảo lãnh, cho ở vùng California, gia đình Thủy-Tiên không còn gặp Giao nữa vì hắn xin lên ở tiểu bang Oregon chỗ có nhiều họ hàng của hắn tị nạn. Ở đó, Giao lấy vợ người Việt.
Hắn và Hùng chỉ liên lạc vớI nhau bằng thư từ, điện thoại mà thôi. Vài năm sau, vợ chồng Giao từ Oregon xuống California chơi. Họ tới ăn ở tại nhà vợ chồng Hùng. Trước khi trở về Oregon, Thìn vợ của Giao lục hành lý lấy ra bộ dao kéo, bảo Thủy-Tiên :
- Tóc mình hơi dài. Chị cắt giùm mình một tí nhé.
Thủy-Tiên ngơ ngác :
- Tôi đâu biết cắt tóc.
- Dễ lắm. Tôi chỉ cho.
Giao đứng gần oang oang khuyến khích Thủy-Tiên. Hùng chỉ im lặng, hất cằm, ra dấu cho vợ hãy chiều ý Thìn. Sau nửa giờ hì hụi cắt tóc hầu vợ bạn của chồng, theo lời chỉ dẫn với giọng bà chủ, Thủy-Tiên ngừng tay, bảo Thìn :
- Xong rồi, chị.
Thìn cầm gương soi, kêu lên :
- Chị cắt dở quá ! Hai bên lệch, trên trán ngắn tếu à !
Thủy-Tiên bực mình, nói dỗi :
- Tôi đã bảo chị là tôi không biết cắt tóc mà !
Lúc đó Giao và Hùng đã ra ngoài. Hai người đàn bà gầm gừ nhau chán, mỗi người vào phòng riêng đóng cửa lại. Hôm sau, hai vợ chồng Giao về Oregon với thái độ giận dữ. Hùng biết chuyện, cũng bắt đầu bực mình. Thủy-Tiên tuy căm giận vô cùng, nhưng vì thương chồng nên không nhắc lại chuyện đó lần thứ nhì. Hơn nữa, nàng bận học cho xong khoá tu nghiệp cao cấp về ngành điện toán. Sau đó, nàng được một hãng lớn của Nhật cho làm chức vụ quan trọng. Năm sau, Thìn xuống California một mình, đến ở nhà họ hàng. Giao điện thoại báo cho Hùng biết. Nhưng Hùng đã hoàn toàn chán ghét cặp vợ chồng người bạn cố tri đó rồi, nên chàng không cùng vợ đến thăm Thìn. Ít lâu sau, Giao viết thư chửi vợ chồng Hùng thậm tệ. Hùng không trả lời. Tình bạn quái gở do đó chấm dứt sau bao năm liên hệ.
Mặc dù là người duy nhất mang vết thương lòng lê thê sâu đậm, Thủy-Tiên vẫn sống bên chồng với tình yêu trọn vẹn của vợ đối với chồng. Tuy nhiên, vì tự ái của một phụ nữ trí thức, nàng cương quyết không để tình nghiã phu phụ ấy chuyển sang lãnh vực đam mê từng đến với nàng thuở ban đầu. Như một nữ tu, Thủy-Tiên hết sức mộc mạc ngoài giờ làm việc. Trong khi các phụ nữ khác vui hưởng hạnh phúc làm vợ, làm phái đẹp, nàng chỉ mặc quần áo giản dị, không son phấn nước hoa, không làm tóc, móng chân móng tay. Thế-Hào và Giáng-Tiên, hai người con thân yêu của Thủy-Tiên, biết rõ chuyện giữa bố mẹ, luôn luôn âu yếm mẹ, nói lời hoà giải :
- Mẹ ơi ! Nhờ tình yêu tuyệt vời của bố, nên mẹ mới cho ra đời hai chúng con xinh đẹp giỏi giang như thế này, phải không Mẹ ?
Lời nói hoà giải này không bao giờ xảy ra với Hy và Hà cũng như với Giao và Thìn. Giữa những cặp vợ chồng loại này, tình yêu chân thật không hiện diện.
... ... ...

Này hoa này lá của tôi ơi !
Sao chẳng còn tô điểm cõi đời ?
Riêng tôi còm cõi lê chân bước.
Sáng chiều góp nhặt cánh tim rơi !
 


Một buổi tối đi làm về, trong bữa cơm buồn nản, Hùng chợt cất tiếng khô khan bảo Thủy- Tiên :
- Anh quên chưa kể cho em nghe. Cách đây vài tháng, trong giờ nghỉ trưa, anh ra trung tâm thành phố Los Angeles đi dạo, bắt gặp Thìn vợ của Giao cặp tay một tên Mỹ. Thấy anh, Thìn lờ đi. Anh vội dùng điện thoại cầm tay gọi cho Giao mặc dù lòng hãy còn giận nó. Nghe anh kể chuyện Thìn đi với bồ Mỹ, Giao thản nhiên nói :" Nó bỏ tao lâu rồi Còn tao hiện sống với vợ mới, kém tao hai mươi tuổi, lấy từ Việt Nam mang qua." Anh từ biệt nó, đóng máy lại.
.
Thủy-Tiên cũng bình thản kể :
- Ở Garden Grove, Hy chồng của Hà bồ cũ của anh tự nhiên thu xếp hành lý lên Fresno ở với mẹ già của anh ta, bỏ Hà một mình. Các con của họ đã lớn và lập gia đình ra ở riêng lâu rồi. Chuyện đó xảy ra cả năm nay. Thỉnh thoảng Hà có gọi điện thoại cho em để tâm sự.
Không nói ra, cả hai đều biết rằng dưới bầu trời Âu Mỹ văn minh tư bản tột đỉnh, có những linh hồn người vợ trở nên cằn cỗi, đang kéo lê cuộc sống vô vị, như những bông hoa thiếu nước nuôi dưỡng trở thành những đoá hoa khô. Mặc dù ngườI chồng lầm lỗi đã cố hết sức sống trọn vẹn với người vợ, nhưng vì nàng đã nhận quá nhiều dấu ấn mà không một thứ nước suối trần gian nào có thể gột rửa được, nên hai người sống với nhau như hai người máy được kỹ thuật điện tử thượng thặng xắp đặt cho sống cuộc đời vợ chồng hoàn hảo. Tuy nhiên, đàng sau cái hạnh phúc hoàn hảo đó là cả một vườn hoa tình cảm mất mùa, không có kỹ thuật nào cứu vãn được.
Tệ hơn nữa, tâm sự của Hà trao cho bạn gái Thủy-Tiên lại không thể hiện một vườn hoa mất mùa, vì giữa Hà và Hy chưa hề xây dựng một vườn hoa nào cả. Kể từ ngày cưới cho đến nay, hai vợ chồng trên giấy tờ chưa bao giờ chia sẻ với nhau vũ trụ tình cảm của họ. Hy lấy Hà vì nàng là con nhà nề nếp, học giỏi, xinh đẹp. Hà lấy Ngọc-Hy là theo ý của cha mẹ cũng như theo lựa chọn của lý trí, vì chàng có sự nghiệp vững chắc, gia tài đồ sộ, lại được vẻ bảnh trai trên trung bình của một thanh niên Việt Nam được du học lâu năm bên Âu Mỹ. Giờ đây, Hy về ở với mẹ già để trả hiếu cho mẹ, mà cũng để giữ lời hứa với Hà từ đầu là không để Hà phải " sống kiếp làm dâu". Giờ đây, chàng trở thành lão làm vườn, ngày đêm tưới bón một gốc hoa đào lâu năm, từng mùa quét hoa lá già rơi rụng, vô tình quét bóng thời gian qua ngưỡng cửa cuộc đờI, đi sâu vào lòng cát bụi,... Còn Hà, mỗi khi điện thoại cho bạn gái, nàng như ca một bài vọng cổ lâu đời :
- Buổi sáng, buổi tối, tao soi gương, thấy mình không già. Bao nhiêu nét đẹp kiêu sa thuở trước hãy còn in trong mặt gương. Tao nhắm mắt và thấy rõ tất cả thời thanh xuân với bao khát khao, hồn nhiên, ... Mỗi khi các con tao đến thăm, hoặc anh Hy ghé chơi, những khao khát và hồn nhiên ấy mờ đi. Tao thấy mình thật già nua, từ ý nghĩ đến lời nói. Sau cùng, tao khám phá ra một điều :
Giữa tuổi thanh xuân với tuổi già của tao là một khoảng trống vô vị, thiếu hẳn kỷ niệm phải có của một con người sống thật sự. Đời tao là cả một vườn hoa non tươi đã bị "đông lạnh", không sống mà cũng chẳng chết cho. Tao hằng tự hỏi :"Bao giờ mình mới được chết ?" Câu trả lời là :
"Ta đã chết từ lâu rồi !" Góc trời của Giao và Thìn mờ mịt hơn, cho đến khi Hùng bất ngờ nhận được một lá thư của người bạn tội lỗi đó. Dòng thư như lời xưng tội :
" ...Thìn phản tao, cướp chồng người ta. Sau vài năm, anh chồng tên Georges trở về với vợ chính thức. Thìn cô đơn, năn nỉ tao cho t ở lại, nhưng quá trễ vì tao đã có vợ mới chính thức cưới sau khi chính thức ly dị với Thìn. Ít lâu sau, tao nghe tin Thìn sắp chết vì bệnh ung thư. Trước khi nó chết, tao có đến thăm vài lần. Nó gầy khẳng khiu, đầu không còn tóc, chẳng khác cành cây khô héo mất dần sinh lực. Riêng tao cũng chẳng khá hơn. Con vợ trẻ của tao và tao càng ngày càng không hiểu nhau. Chúng tao sống với nhau như hai cây kiểng để bên nhau, một già một trẻ, không bao giờ san sẻ được vẻ đẹp, sinh lực, đam mê thể xác cũng như tinh thần, của nhau. Thời gian của tò mò, háo thắng, ham muốn lúc đầu đã mất đi thật nhanh, và không bao giờ lập lại được. Lâu dần, hai chúng tao xa nhau cả tâm hồn lẫn thể xác. Những gần gũi sinh lý bất chợt càng ngày càng hiếm hoi. Tao biết rằng mình đã già nua và sẽ bị cô vợ trẻ của tao bỏ rơi trong quên lãng một ngày không xa,...Bạn cũ của mày. Giao" Dù tan tác hay còn chung một cành, những bông hoa khô héo trên đây tượng trưng cho một số không nhỏ linh hồn cằn cỗi vì sự cô đơn không cứu vãn được, hậu quả của những lầm lỗi trong tình yêu và tình bạn. Dù là định mệnh đưa đẩy, là bản chất con người gây nên, hay hoàn cảnh thời đại xui khiến, đó đều là những trường hợp Đau Khổ chiến thắng Hạnh Phúc. Đó là nguồn vô tận cho những dòng thơ đời này nối tiếp trang thơ đời trước và khêu gợi ý thơ đời sau, vần điệu những bài thơ đó mang vài thay đổi ...........
 


Hoa tim khô héo tả tơi,.
Tiếc tình hay xót thương đời dở dang ?
Mấy lần tâm chít khăn tang,.
Vì đâu mà thiếp với chàng xa nhau ?!
 


Sau lần du lịch bên Âu Châu trở về, Hùng và Thủy-Tiên đã khiến cho hai con của họ, Thế- Hào và Giáng-Tiên, hết sức ngạc nhiên, sung sướng. Mỗi khi đi làm về, Hùng quấn quít bên vợ như chú rể mới. Còn Thủy-Tiên cười nói nhiều hơn, dùng mỹ phẩm đều đều, thay đổi y phục mới hàng tháng. Sau một thời gian ở vớI bố mẹ để nhận xét chắc chắn sự thay đổi của hai người, Thế- Hào và Giáng-Tiên yên chí mua nhà ra ở riêng để được hưởng quyền lợi về thuế má của Hoa-Kỳ dành cho thanh niên thiếu nữ độc thân có công ăn việc làm tốt và biết đầu tư tiền bạc vào ngôi nhà của riêng họ.
Không bao giờ Thế-Hào và Giáng-Tiên biết rằng, trong mấy tuần lễ nghỉ Hè ở Âu Châu, Hùng và Thủy-Tiên đã ghé thăm nước Pháp, rồi một thôi thúc vô hình khiến hai người đi Métro tới nhà ga Montparnasse, thay vì nhà ga Lyon để xuống Nice. Ở đó, họ thấy một tủ gỗ có nhiều hộc đựng những tấm giấy ghi tên các tỉnh và giờ những chuyến xe lửa. Mắt họ chợt chú ý tới chữ LOURDES trên một tấm giấy. Vốn biết Lourdes là một thánh địa, họ lấy tấm giấy, mở ra xem, và thấy lộ trình Paris- Lourdes dẫn qua rất nhiều tỉnh nổi tiếng. Họ bèn tới quầy bán vé, xếp hàng, mua vé xe lửa tốc hành TGV đi Lourdes, một tỉnh hành hương quốc tế cạnh biên giới Pháp-Tây Ban Nha.
Sau khi thuê được phòng tại một khách sạn ngay cạnh nhà ga xe lửa, hai vợ chồng ra đường, theo chân các du khách hành hương đủ mọi quốc tịch tấp nập đi vào đại lộ Grotte của trung tâm tỉnh Lourdes. Đại lộ sầm uất đó dẫn thẳng tới cổng vào khu đền thờ rộng mênh mông dưới chân núi. Mặc dù không có Đạo, Hùng và Thủy-Tiên tự nhiên theo nhóm người hành hương uống nước trong mạch chảy ra từ ngọn núi xưa kia nữ thánh Bernadette đã được thấy Đức Bà Maria hiện xuống. Bước sang khu thắp nến, họ để tiền vào thùng, lấy hai cây nến trắng dài, châm lửa, cắm chung với các cây nến khác trên giàn giá nến bát ngát, lửa khói lung linh huyền bí. Đoạn, họ tới hang đá ngay bên cạnh, có tượng Đứa Mẹ trên cao. Họ xếp hàng để được tới gần bàn thờ, sờ tay vào thành núi đá nhẵn bóng. Cũng như mọi người, hai vợ chồng im lặng lần bước vòng trước mặt hang đá. Cả hai đều cảm thấy xúc động mãnh liệt. Tâm tư bề bộn buồn sầu chán nản hoà cùng uớc muốn của hai vợ chồng đã được kính cẩn dâng lên cùng với lời nguyện cầu thành khẩn phó thác mọi sự vui buồn vào trong tay Đức Mẹ Maria nhân từ.
Cửa hang Lộ- Đức trên cao.
Mẹ Từ Bi giữa ngàn sao sáng ngời.
Giơ tay cứu độ người đời :
Con dâng lên Mẹ muôn lời khổ đau.
Khi trở về nhà bên Hoa Kỳ, Hùng và Thủy-Tiên mang theo hai tâm hồn mới chứa đựng Tình Yêu bao la, trong đó có tình yêu vợ chồng thật khăng khít đầm ấm.
Bó hoa khô héo của tâm hồn Thủy-Tiên đã trở thành tươi tốt, toả ngát hương thơm trân quí, mang lại mùa Xuân trọn vẹn cho cuộc đời riêng tư của nàng, hoà nhịp cùng hoa lá cỏ cây huy hoàng lộng lẫy cùng vạn vật hân hoan tươi trẻ mà Thượng Đế đã ban cho Cõi Trần duy nhất của loài người.




Hồn ta gột rửa trắng phau,.
Cung đàn phu phụ trước sau nhịp nhàng,.
Đường tình trải rộng thênh thang,.
Sơn xanh quá khứ, thếp vàng tương lai,...




Bình Huyên (Paris)





1679

Thuốc mắc cổ



Người nhà giàu kia ngậm đồng bạc chơi, rủi quên nuốt mắc ngang cổ, chạy rước thầy tới cho thuốc.
Thầy rằng: "Có khó gì, mua một bộ bài cào về đốt đi, hoà với nước uống, còn ngoài thì lấy lá thuốc cứu đốt rồi nó ra".
Chủ nhà hỏi: "Sao vậy?"
Thầy rằng: "dễ hiểu quá: trong bị ăn cướp đánh ra, ngoài lửa chấy vô, tự nhiên bach nó phải lòi ra chứa sao!".394

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

Viên đạn tiếp theo



Một anh chàng Hy Lạp bắt gặp vợ mình trên giường với tên Thổ Nhĩ Kỳ, liền rút khẩu súng ra chĩa vào trán mình. Nhìn thấy thế, gã tình nhân của vợ anh ta cười phá lên. Anh chàng Hy Lạp nói với tên Thổ Nhĩ Kỳ:
- Này chớ có cười, đồ con lợn! Viên tiếp theo dành cho mày đấy!
2296

Loại cơ hội nào?



Buổi thi vấn đáp ở lớp tại chức, có cô nữ sinh khá đẹp nhưng lại trả lời kém. Trước khi cho điểm, thầy giáo hỏi:
- Tôi thấy là em có ít thời gian học bài, đã chồng con gì chưa?
- Thưa thầy, nếu chưa thì thầy có cho em một cơ hội không ạ?
2192

Sóng xa bờ





Xế chiều, lúc thằng Câm đang ngồi loay hoay rửa sạch những lon bia bên bờ biển cho trôi cát dính, một bàn tay kéo giật làm nó té bệt xuống đất. Sóng biển tràn lên ướt mông quần. Câm giận dữ ú ớ quay lại. Điệu bộ cuống cuồng và thảng thốt của bà Tư làm nó ngớ người.
- Lẹ đi Câm ơi!
Thằng Câm vội vã lồm cồm ngồi dậy quơ vội những lon bia gom vào bọc. Bà Tư kéo giật cánh tay nó lôi đi, khuôn mặt lộ ra vẻ căm phẫn. Thằng Câm sợ hãi chạy theo, không biết rằng ánh mắt đó không phải dành cho nó. Nó bươn dốc bằng cả hai tay. Thoáng chốc nó kịp nhào đến bên mẹ nó. Mẹ thằng Câm gần như đã lịm đi, nhưng nỗi đau nào đó khiến người đàn bà quằn quại điên dại. Thằng Câm thấy người mẹ đầy máu. Đám đàn bà la hét gì đó. Một người đàn ông từ bên nhóm kia tách ra cúi xuống vực mẹ thằng Câm chạy trở ra cổng khu du lịch. Máu loang chỗ mẹ nó nằm. Thằng Câm nhìn sang. Ba nó đang gầm thét vùng ra khỏi vòng tay của ba người đàn ông.
Không ai kể cho thằng Câm nghe về chuyện đã xảy ra khi nó dưới bãi biển. Ba nó tìm đến khu bán hải sản, bắt vợ đưa tiền nhậu. Nhưng hôm đó du khách đến bãi ít, tiền bán không đủ lời, mẹ thằng Câm đã không chịu đưa tiền. Đứa bé sắp chào đời khiến người đàn bà tội nghiệp muốn phòng chút tiền vốn còm. Ba thằng Câm gầm lên. Mẹ nó hoảng hốt chạy lên con dốc cát. Ba thằng Câm có chút hơi men đạp gánh bún đổ tung. Đám người bán nhốn nháo không ai dám lại gần. Ai cũng biết ông ta nổi tiếng hung bạo. Đến khi ông ta chụp khúc cây rượt theo vợ lên đồi cát và phang chí tử vào người, vào cái bụng đã nổi lớn của vợ, đám đàn bà la hét cầu cứu.
*
Mẹ thằng Câm nằm luôn trên trạm y tế mấy ngày. Mẹ nó vẫn thiêm thiếp, mặc cho bé Út ôm mẹ gọi, mắt hãy còn ướt nhòe vì cả ngày khóc mếu. Thằng Câm ngồi im nhìn mẹ nó thở phập phồng. Cái đau đớn mà mẹ nó chịu đựng không phải chỉ là thể xác. Em bé trong bụng của mẹ đã chết rồi.
Vùng biển nghèo chạy tuôn mồ hôi mà cuộc sống vẫn khốn khó. Cũng như nhiều người phụ nữ khác ở đây, mẹ thằng Câm làm đủ thứ: cào muối, gánh muối, ướp cá làm mắm v.v... Ông chồng càng ngày càng coi thường người vợ gầy đét và đen nhẻm suốt ngày lam lũ. Ở vùng biển quên này, những người vợ tảo tần sớm hôm và hy sinh cả đời cho chồng con nhưng không khi nào được chồng coi trọng dù luôn là người trang trải gồng gánh cho cả nhà. Nhưng không ai than phiền vì điều đó. Chưa có một người đàn bà nào cảm thấy họ chịu nhiều sự bất công. Thấy làm sao được khi bước chân chưa bao giờ rời qua xóm, và khi quanh mình ai cũng như ai? Những ông chồng luôn đẩy ngực cho rằng mình là trụ cột chính vì đi biển mang tiền về mà không hay số tiền còm cõi ấy không đủ chi dùng cho chính bản thân anh ta. Và bản tính gà trống luôn khiến anh ta vênh váo chứng tỏ ta là đàn ông bằng cách la hét thị uy với vợ, thẳng tay tát cho một cái nếu muốn và thằng đàn ông mạnh mẽ nhất là kẻ có trong tay nhiều vợ nhỏ nhất!!!
Khi bãi biển cát trắng mịn bên khu rừng dương được khách du lịch tìm tới mỗi ngày mỗi đông, những người phụ nữ địa phương ra đó bán đồ biển. Ở đó, họ đã nhìn thấy những điều mà cuộc đời họ, mẹ và bà nội, bà ngoại, bà cố của họ chưa từng thấy: Những đôi vợ chồng già có, trẻ có, đối xử với nhau thật yêu thương, tôn trọng. Họ mới hiểu ra trong đời có những người đàn ông như thế: nhẹ nhàng thoa kem lên người vợ, cẩn thận bóc vỏ ghẹ, vỏ tôm cho con cái ăn với điệu bộ rất nhẹ nhàng và tươi tắn. Họ không khi nào nói nặng lời mà gọi "em ơi" rất ngọt ngào. Và người vợ cũng thật hạnh phúc rót bia cho chồng uống hoặc đùa giỡn sóng với chồng con. Những cặp tình nhân thì khỏi phải nói. Những phụ nữ đến đây thật hạnh phúc!
Ban đầu những người phụ nữ địa phương tự nhủ với chính mình: tại vì những người ấy có tiền. Sau nữa họ bắt đầu trò chuyện với nhau, xa xa gần gần rằng những người đàn ông thành phố không bao giờ chửi mắng đánh đập vợ con??? Họ thầm mong ước vì họ đã nhìn thấy có những cuộc đời khác.
Có một điều mẹ thằng Câm không bao giờ kể, rằng có một lần khi ba thằng Câm đến bãi dương đánh vợ hai bạt tai rồi rời khỏi đó khi vợ nhẫn nhịn không dám nói một câu, lặng lẽ đưa cho chồng ít tiền, lúc đó đã có một du khách nhìn thấy. Thấy thì nhiều người thấy, nhưng người đàn ông đó một lúc sau kêu mẹ thằng Câm mang tô bún tới. Ông ngồi trông đồ cho vợ và con gái tắm dưới biển, nhờ mẹ thằng Câm kêu cho mấy lon bia. Khi mẹ thằng Câm lấy bia của chị Hai đem lại, dặn:
- Anh uống xong cho cháu nó mấy cái vỏ bia bán kiếm tiền ăn kẹo. Cháu nó đứng kia.
Má thằng Câm chỉ nó đứng gần đó. Ông khách nhìn nhận mặt:
- Con lớn của chị hả?
- Dạ, cháu bị câm điếc.
- Câm bẩm sinh?
- Dạ.
- Không chắc, có thể cháu điếc nhưng không câm, chị có đưa cháu đi bác sĩ chưa? - chị lắc đầu - Sao chị không cho cháu đi học trường khuyết tật? Nếu cháu chỉ điếc người ta sẽ dạy cho cháu nói.
Khắp người mẹ thằng Câm rùng lên. Vì giọng nói ấm áp quan tâm của người đàn ông và nhất là vì ông ấy nói thằng Câm sẽ có thể nói.
- Chồng chị hay đánh chị lắm hả?
Mẹ thằng Câm cúi mặt giấu những vết bầm. Nhận ra mình thật mất lịch sự, người đàn ông thở dài:
- Nếu chồng đã không thương yêu mình thì chịu đựng làm gì? Chị tìm cách lo cho thằng bé, chẳng lẽ để nó câm điếc tha thẩn suốt ngày ngoài biển nhặt vỏ lon?
Cuộc chuyện trò ngắn ngủi nhưng đã khiến cho mẹ thằng Câm nuôi hy vọng mong manh về đứa con trai của mình. Một điều khác lạ mà mẹ nó không hiểu rõ nhưng luôn ám ảnh đầu là: chồng không yêu thương mình sao mình lại phải chịu đựng? Đó là những suy nghĩ phản kháng đầu tiên mà không bao giờ mẹ thằng Câm dám nói.
*
Hai hôm nay mẹ nó đã khỏe lên nhiều. Ngày hôm qua, mẹ ôm bé Út khóc rất nhiều. Mẹ còn vuốt tóc nói với thằng Câm gì đó. Nó không hiểu nhưng chỉ biết ánh mắt mẹ rất buồn, nhìn nó xót xa. Nó chẳng biết phải làm gì, cầm tay mẹ rưng rưng. Chiều nay thằng Câm mang lên cháo trứng, cầm theo hai mảnh lá dừa định bụng tết cho mẹ xem con cào cào nó vừa học được.
- Hai đứa lên thăm mẹ hả?
Cô y tá nhìn nó dò hỏi khi hai anh em vừa bước vào. Rồi chợt nhớ thằng Câm không nghe được, cô thở dài dẫn hai anh em đến chỗ mẹ nó. Ngay từ xa, thằng Câm đã thấy cái giường trống trơn. Cô y tá bế bé Út lên:
- Mẹ của con bỏ đi rồi.
Bé Út không hiểu, nó òa khóc. Hai người áo trắng khác đi lại, ra dấu cho thằng Câm hiểu mẹ nó đã rời khỏi trạm y tế. Thằng Câm gần như giật bé Út xuống, hộc tốc chạy về nhà đón mẹ. Cô y tá nhìn theo hai anh em nó nói với đồng nghiệp:
- Chị ấy không về nhà, trốn kiểu này là trốn ba nó, bỏ đi luôn rồi.
- Ông chồng như vậy, sống chung có ngày bị ổng đánh chết không chừng.
Việc mẹ nó bỏ đi khiến bà nội nó sụp hẳn. Bé Út hai tuổi chưa biết gì ngoài chuyện nhớ mẹ khóc suốt ngày. Ba thằng Câm lồng lộn như con gà trống bị thương hoặc bị rút hết lông đuôi. Người đàn ông duy nhất trong nhà bây giờ chính là thằng Câm. Mười tuổi, thằng Câm tiếp tục nhặt lon bia trong khu du lịch kiếm tiền cho nội mua gạo. Ba nó không đụng đến tiền của nó nữa, nhưng bằng đó vẫn không đủ cho anh em nó ăn no. Bé Út lớn tuổi mà không lớn người.
Gần hai năm sau, khi thằng Câm đang lang thang ngoài bờ biển với bọc lon, mẹ nó đã chạy nhào đến ôm chặt nó vào lòng. Tiếng hức hức bật ra từ miệng thằng Câm đầy đau đớn hờn tủi. Hai mẹ con ôm nhau khóc ròng dưới rừng dương.
- Mẹ về thăm con và em, mẹ không ở đây được... Mẹ sẽ kiếm tiền cho con ra thành phố chữa bệnh, rồi con sẽ biết nói, Câm à.
Mẹ bưng mặt thằng Câm nói, ánh mắt chứa chan hy vọng. Mọi người xung quanh à lên: mẹ thằng Câm về thành phố. Chỉ có thằng Câm là chẳng hiểu gì.
Một chốc sau, hai mẹ con kéo tay nhau về nhà thăm nội và bé Út. Cả nhà mừng tủi ôm nhau chưa được bao lâu, chưa hỏi thăm được gì thì ba thằng Câm về tới. Con gà trống chứng tỏ sự kiêu hùng của mình bằng con dao rựa rút phăng từ góc bếp. Mẹ thằng Câm chạy.
Tao giết, giết! Dám vác xác về đây tao giết mày!
Cả xóm náo loạn. Thằng Câm vút chạy theo mẹ nhưng thoáng chốc mẹ nó đã mất dấu trong xóm ngoằn ngoèo. Mẹ nó chạy thoát rồi biến mất tăm như hai năm trước. Khi thằng Câm quay về nhà, ba nó vẫn điên khùng hăm dọa chém giết như để chứng tỏ ta là thằng đàn ông chính hiệu. Lần đầu tiên, thằng Câm nổi lên một sự giận dữ với chính ba nó. Lần đầu tiên thằng Câm nhận ra cha nó chỉ là một thằng đàn ông hèn mạt, hung bạo. Ở ngoài bãi nhiều, nó thấy những người cha từ nơi nào đó đến tắm biển, chăm sóc cho con cái của họ, cõng chúng trên vai và chơi đá banh, cho chúng những món ngon nhất. Thằng Câm thầm ước mình có một người cha như thế, điều ước cũng mong manh như của mẹ nó.
Thêm bốn năm trôi qua, mẹ thằng Câm không một lần về quê thăm anh em nó. Thằng Câm không biết từ đâu bà nó có tiền mua kẹo chewing gum cho nó bán thêm ngoài bãi. Bé Út được đi học, buổi nào không học thì ra bãi dương bán kẹo với anh. Thằng anh đưa kẹo cho em bán rồi hí húi tết những con cào cào bằng lá dừa trong khu du lịch. Lúc nào cũng phải đủ cặp hai con đực và cái. Ai cũng khen nó khéo tay. Thằng Câm còn tết em bé có hai tay cử động khi giật giật cọng dừa tặng cho du khách. Du khách nhiều người mến thằng bé câm khi nghe kể chuyện mẹ nó đã bỏ đi, sau khi nhận cặp cào cào lá dừa đã cho nó tiền.
Câu chuyện buồn thêm vì ba thằng Câm đã chết cách đó một năm khi ông ta chạy ra ghềnh đá trắng tìm gái. Say men ông té vào bãi đá chết tươi. Hai anh em Câm ở với bà nội. Ngày nào, ngày nào và ngày nào thằng Câm cũng ra bãi với nỗi nhớ mẹ. Khát khao cháy bỏng của nó là mẹ sẽ chạy đến ôm chầm lấy nó như lần nào. Thằng Câm sẽ đưa mẹ về nhà, mẹ sẽ ở lại luôn vì không còn người đàn ông hung ác kia nữa. Thằng Câm không cần biết nói, nó chỉ cần có mẹ, bé Út cũng cần có mẹ.
Nhưng đoạn cuối vẫn chưa đến. Bây giờ, ở bất cứ nơi đâu nếu ai đó có quen biết và gặp gỡ người đàn bà bất hạnh ấy hay nếu mẹ thằng Câm đọc được câu chuyện này, nếu còn nhớ đến bãi dương, nhớ đến những dốc cát trắng cao đến nỗi có tên là Dốc Lết, nhớ đến thằng con trai câm và bé gái út hãy quay về, như một con sóng vỗ bờ. Rồi mọi nỗi đau sẽ qua đi.

2185

Quá Khứ Một Lần Nữa





Chủ nhật hôm nay trái với lệ thường, tôi thức dậy thật sớm bởi tiếng động đâu đó bên ngoài. Bước xuống khỏi giường, tới vén rèm, mở cánh cửa sổ, vùng ánh sáng ảm đạm với làn gió nhẹ tràn vào khiến tôi ngập chìm trong hơi lạnh sắc se của buổi sáng cuối thu. Màn sương mỏng là đà trên những ngọn đồi phía xa như dãy khăn sô trên vùng tóc rối. Hàng thông già lá cành xanh thẳm phía trước mặt, ngạo nghễ bên những ngọn redwood. Những hàng cây không tên khác trên cành còn lại vài chiếc lá úa cũng buông tay, thả mình nhấp nhô như những cánh bướm đang vờn trên bụi hoa dại giữa vùng cỏ chết. Tư lự khoanh tay gát lên thềm cửa sổ, thả tầm mắt dòm quanh khu chung cư cạnh bãi đất trống như cố kiếm tìm con đường xa lạ hơn trong tâm thức.

Hoạt cảnh đôi trai gái, tay trong tay đi bộ về phía nhà thờ ở góc cuối đường gợi nhắc trong tôi vô vàn niềm đau xót. Bởi tôi thực tình hoãng sợ những buổi sáng trên con đường mù sương đi ngang nhà thờ đến trường học, trong tiếng chuông ngân vang báo hiệu hết giờ lễ sớm. Cùng đi cùng về như một hội ngộ tình cờ với người đã gởi trao tất cả cảm tình. Những ngày đằm thắm, tha thiết bên nhau, cho tới khi hai đứa ra trường. Cha mẹ đôi bên nhận lời giao ước, một lễ cưới linh đình được diễn ra. Lòng tôi rộn rã, ngất ngây với tiếng pháo vu qui tưng bừng nổ như một ngày đại hội. Tưởng tình yêu như keo sơn, gắn bó vĩnh viễn cho tới ngày xuôi tay nhắm mắt. Vậy mà mối lương duyên đó đã trôi đi như ngọn thác, mặt ghềnh, chảy xuôi như giòng nước ngầm lặn hút dưới đáy biển sâu. Cuộc đời tối đen của tôi thoáng đến rất nhanh trong trí nhớ, gờn gợn trong lòng từng vẩn buồn không tên, cùng với cảm giác ớn lạnh bàng hoàng của cơn gió trở trời. Nước mắt bỗng ứa ra, tôi cắn môi cho qua cơn xúc động. Trong óc chập chờn hoạt cảnh cuộc cãi vã đưa đến xô xát hai năm về trước. Rờ đường thẹo dài nằm vắt ngang từ phía trên cằm và vòng xuống phía dưới, dấu vết khó quên và cũng khó tàn phai nổi với thời gian. Ðời người thay đổi không phải do một hay nhiều nỗi nghiệt ngã mà do định mệnh ban phát, mà chính là do chọn lựa sai lầm đối tượng của đời mình. Tôi thầm lặng nhận chịu và cúi đầu giã từ tình yêu, tình chồng vợ cánh chuồng, yểu mạng để triền miên ray rức trước đổ vỡ lớn lao trong đời. Cuộc sống trống không từ hai năm nay dày vò, vừa đủ hối hận đã làm lỡ đời mình với một thứ tình yêu vụng dại và rã tan hết những lời nồng ấm, những buổi hẹn hò, những cánh thư màu và bây giờ tất cả mất hút chỉ còn là kỷ niệm như cánh chim giữa hoàng hôn chìm khuất nơi lòng trời đen thẳm. Ðôi khi tôi muốn đi nhưng không biết nơi đâu hầu tránh cảnh đời huyên náo, lấp đầy tháng ngày còn lại, vừa đủ lãng quên đời sống cũ. Niềm rung động và hạnh phúc trước kia không còn nữa. Cơn lụt lũ tàn phá hết cánh đồng xanh tươi phơi phới trong hồn người con gái nửa vời dang dở, đã lay đổ hết lòng tin vào hạnh phúc của nỗi ước mơ ngày son trẻ. Cuộc ly hương, tâm hồn tôi dường như đã thay đổi và như con chim đủ lông cánh muốn lượn vào vòm trời cao rộng. Ðôi khi nhớ lờ mờ một chút kỷ niệm tuổi thơ trong con thuyền quá khứ trên giòng nước thời gian trôi về quê hương xa tăm tấp ấy.

Co ro trong chiếc áo mỏng chạy xuống dưới nhà, dòm quanh quất trong nhà không còn ai, ba mẹ đi làm, hai đứa em chắc đã đến thư viện chỉ còn bà nội đang ngồi trên "sô pha" coi phim chưởng. Không biết bộ phim này bà coi chưa, nhưng với tôi cũng đã hơn chục lần. Mỗi lần có cô, chú ở xa về chơi, hoặc bạn bè tới, ba mẹ tôi bắt hai đứa em chọn lựa phim, không hiểu vô tình hay cố ý mà lúc nào cũng thấy tụi nó lôi bộ phim "Thần Châu Kiếm Khách" ra cho mọi người thưởng thức. Trong phim có người con gái chỉ một đêm buồn rầu, sáng ra mái tóc đã trắng phau. Tôi thấy như loáng thoáng trong cô gái đó hình ảnh của chính mình...

Thấy mặt tôi, bà nội hỏi và nói một hơi, không cần chờ tôi trả lời, "Mấy giờ rồi Trang ? Kiếm gì ăn chút đi, nhớ sửa soạn đúng mười một giờ rưỡi đưa nội đi chùa."

Trước kia, ngoài những ngày đi làm, tôi thật rảnh rổi đôi khi ở nhà một mình tự do ngủ nướng. Nhưng hơn nửa năm nay, lãnh thêm một công việc làm, "tài xế đặc biệt" cho nội, siêng năng cần mẫn đưa nội đi chợ, đến nhà những bà bạn cũ mới viếng thăm, nhất là đi chùa trưa chủ nhật.

Mặc xong cái áo, xỏ đôi giầy vào chân, tôi chòm sát mặt vào gương, tô một chút phấn hồng, ngắm nghía khuôn mặt trái xoan với đường kẻ chì đen thanh tú quanh đường viền đôi mắt to đen láy của mình. Tôi mỉm cười đồng tiền bên má trái lún sâu tăng thêm chút mỹ miều. Nỗi hài lòng len lỏi vào tâm thức. Liên tưởng cuộc đời không mấy may mắn của mình, "hồng nhan đa truân" người người thường bia miệng câu nói đó quả thật đúng, và bắt tôi nhớ tới câu "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã từng học hồi thời Trung Học. Ðang lơ mơ nghĩ ngợi, tiếng bà ngoại phía ngoài vọng vào với chút phiền trách yêu thương. Xong chưa nhỏ, con gái xứ này mỗi lần đi ra ngoài sửa soạn gần hết nửa ngày. Tôi vội vàng lên tiếng. Dạ, xong rồi. Vừa trả lời vừa bước ra khỏi cửa phòng, nhưng cũng không quên quay lại nhìn lần nữa dáng mình trong tấm gương dựng đứng sát tường.

Ðưa nội ra xe mở cửa cho bà ngồi vào chiếc ghế bên tay lái, gài seat belt cho bà, rồi đi vòng phía sau mở cửa lên ghế lái xe như một người tài xế chuyên nghiệp. Lui khỏi thềm đậu, một chút gió lạnh phả vào mặt, vội vàng quay kiếng xe lên, và liếc qua phía bà an toàn trong chiếc áo ấm dầy cộm. Thời tiết thay đổi như tánh tình khó khăn của đàn bà làm nội đau, ba chủ nhật rồi tôi thật rảnh rang, được ở nhà đọc sách. Hết đau bà lại hối thúc tôi đưa đi chùa.

Chiếc Toyota Camry êm đềm lướt chậm trên đường nhựa giữa bầu trời đục đục âm u. Mây xám giăng khắp vùng trời tưởng như sắp sửa đổ mưa. Lối đi đến chùa về trưa như lắng xuống trong không khí thanh tĩnh, thơm mùi lá ướt và cỏ khô.

Khoảng mười lăm phút sau xe đã đến trước sân chùa. De xe vào bãi đậu, hai bà cháu ung dung bước từng bước nhẹ trên cây cầu giả bắt trên một khe đào, nước róc rách chảy, tưởng như mình đang đi trên cây cầu giữa vùng thiên thai tiên cảnh. Lên thềm chùa, cởi giày bỏ dép bà nội đi thẳng lên chánh điện vừa đúng lúc sửa soạn lễ cầu kinh. Có thể vì trời lạnh, không phải là ngày sóc vọng, khách thập phương và phật tử không được nhiều. Mọi người ngồi thứ tự trên chiếc đệm lớn trải từ bục thờ dài gần khung cửa giữa chính điện, những chiếc gối mỏng trước mặt chực chờ đôi đầu gối quỳ lên. Tất cả trong tư thế chờ sư trụ trì chùa ra hành lễ.

Tiếng chuông đồn
g ngân nga vang rền từng hồi bay lan xa nối tiếp hòa lẫn với những câu "kinh chú" thỉnh chuông của chú tiểu phía góc điện thờ. Ðưa tầm nhìn lên ngai vị của phật Tổ, ngài ngự kiết già trang nghiêm giữa tòa sen, đôi mắt mở lớn với đôi vành tai dài thòng tới cổ. Ðó là một bức tượng bằng đá hay cây được sơn son thếp vàng để tượng trưng cho một vị Phật. Tôi thầm nghĩ, nếu có thật là một vị phật đang ngồi trên cao ngất, liệu ngài có ngồi yên cho bao nhiêu chúng sinh tôn kính quỳ lạy hay không? Ðể xóa tan ý nghĩ quẩn quanh tà niệm tôi nhìn qua phía vách chỗ bàn thờ có bài vị và những bức hình nhỏ của những người chết, lờ mờ một chút mạng nhện, con ruồi xanh đang vướng chân vào một góc nhỏ dây tơ, con thằn lằn cụt đuôi khó khăn trườn theo bắt con mồi cái miệng dài của con thằn lằn há ra, ngỡ như nghe rõ ràng đôi cánh mỏng xập xòe kêu cứu. Tôi mở mắt thật lớn nhìn vào bụng con thằn lằn đã lớn ra dưới làn da mỏng dánh một chấm đen dường như đang vùng vẫy bên trong.

Một lần nữa, đôi mắt tôi gần như muốn rách, ráng mở ra không phải nhìn con thằn lằn mà nhìn vị sư mới vừa bước vào giữa điện. Vị sư thật trẻ, khuôn mặt dáng dấp tôi thấy như mình đã gặp và thật quen. Qua một giây trong đầu bừng lên ánh sáng, tôi muốn kêu thật to một tiếng kinh hoàng nghẹn ngào, một sự mừng rỡ đột ngột không nguyên do, gần như muốn phóng ra khỏi tầm kiểm soát kín đáo thường xuyên của tính tình đàn bà nền nếp. Cuối cùng tôi lấy đôi bàn tay đang chấp trước ngực ướt đầm mồ hôi đưa lên ấp vào đôi má nóng bừng. Vị sư bắt đầu hành lễ. Tiếng đọc kinh của vị sư, của phật tử hòa lẫn với tiếng chuông mõ trầm vang trong chính điện liên hồi, không tan lấp nổi, không nhòe nhạt nổi sự hồi tưởng trong tâm tư. Quá khứ hiện về, Khang! ngày xưa...Quỳ trước phật đài, miệng đọc kinh mà hồn như lạc về vùng trời khác.


"Giữa trưa, trời nắng chang chang, không một chút gió. Cầm trong tay cuốn tập bài học, tôi chạy một mạch ra sau vườn chỗ cái võng, bà ngoại hay ai đó đã giăng từ lâu lắm. Tôi ngồi lên, mở tập chỗ trang chép bài học thuộc lòng "Chùa Diệu Ðế", nghêu ngao học, đọc đến câu "Sau chùa cam, quít, cau, dừa, Trước chùa cây kiểng bốn mùa nở hoa", tôi liếc nhìn qua bên kia khoảng đất rộng, kiểng chùa lớn ẩn sau hàng liễu rũ phất phơ, chen lẫn với những cây cam, cây quít, phía trước nhiều cụm mẫu đơn, vạn thọ và những loại cây có bông hoa khác mà tôi không biết tên. Rồi tôi lại ê a..."Trong chùa thờ Phật Thích Ca, Sau lưng đức Phật có bà Quan Âm....."

Giòng họ ngoại tôi thật sùng đạo. Tôi không biết vuông đất gần mười mẫu cạnh nhà có ngôi chùa được lập lên tự hồi nào. Chùa trang nghiêm, mái cong với bốn đường viền trên nóc ngói rêu xanh. Bốn con rồng nằm chụm đầu trên bốn đường viền như trấn giữ phía trên. Hàng cột bốn bên chánh điện cũng thật nhiều rồng, con lớn con nhỏ, quấn mình từ dưới chân lên tới ngọn. Bên trong thật nhiều Phật, Phật Tổ, Phật Thầy dọc dài sát vách hàng hàng lớp lớp đặt trên bệ thờ, thậm chí chỗ trai phòng cũng có Phật. Chùa lớn như vậy mà chuông chiều mỏ sớm chỉ có một vị sư già trụ trì. Thường những ngày nghỉ học, tôi vạch rào lén chui qua sân chùa, ngắt mấy cánh hoa mười giờ, đôi khi đem theo cây vợt bắt bươm bướm, hay bắt chuồn chuồn đậu chập chờn trên mấy cánh bông bụp. Có một lần thấy tôi cầm trong tay con bướm trắng, xâu đuôi mấy con chuồn chuồn kim ngoặt lên ẹo xuống, sư ông tươi cười nói: "Thả nó đi, đừng chơi như vậy nó chết, con mang tội sát sanh". Không biết nghĩ sao, tôi buông tay thả con bướm và chuồn chuồn rồi bỏ đi về. Từ hôm đó rồi thôi, tôi không qua sân chùa chơi như những lần trước. Tôi chưa hiểu nổi mang tội sát sanh là tội gì, nhưng có thể nghe lời sư ông tôi không muốn làm mấy sinh vật đó chết oan.

Ve sầu kêu râm rang trên cây phượng đỏ hoa cạnh hong chùa. Tôi đã bắt đầu nghỉ hè, và đang trông ngóng ba mẹ trở về. Không biết bận rộn chuyện gì mà hai người không thể để tôi ở nhà. Từ hai năm nay ba mẹ gởi tôi sang nhà ngoại. Bà ngoại thương yêu và cưng chiều cháu lắm, nhưng lòng vẫn cảm thấy như bơ vơ, như thiếu thốn tuổi thơ dại không thể hiểu nổi, chỉ biết trông chờ mỗi chiều cuối tuần hoặc những ngày nghỉ lễ để gặp lại cha mẹ mà thôi.

Chín mươi ngày qua mau như đường tên bay thẳng, tôi trở về nhà ngoại sửa soạn tựu trường. Ba mẹ ở lại với ngoại một ngày đêm và đã ra đi từ sáng sớm. Dư vị những ngày bên cha bên mẹ còn lãng đãng như người say còn lại chút men nồng trong hơi thở. Buồn bã, đi thơ thẩn ra sau vườn. Ðứng bên này dòm sang phía cuối ven đất chùa, bắt gặp và chăm chú dòm theo một cái đóm thật xa đang di động dưới gốc cau, dừa, rồi gần, gần mãi cho đến khi tôi nhận ra đó là một thằng con trai lạ lẫm đang lúi húi kiếm tìm gì đó. "Cái đóm" mặc chiếc quần đùi và cái áo sơ mi rộng thùng thình ngắn ngủn. Từ xa "cái đóm" cũng đã thấy tôi, nhưng khi đến gần "cái đóm" dòm thẳng vào một nơi nào ra vẻ lửng lơ, thản nhiên như không thấy ai cả. Tôi đứng đó dòm theo "cái đóm" lẫn khuất vào chùa lúc bóng nắng chiều nhạt nhòa sắp tắt.

Sáng hôm sau sư ông đưa "cái đóm" vào nhà thật sớm để cùng đi với tôi đến trường. Hai đứa chạy lót thót bên sư ông cho tới lúc chia tay tôi vào trường học nữ. Trước khi rẽ lối sư ông nói với tôi, "Trang à, tan học về con ra đứng chỗ kia chờ Khang về với con nha, Khang mới đến đây không biết đường về nhà đâu".

Từ đó, chúng tôi trở thành đôi bạn, hai đứa cùng đi cùng về hai lượt trên đường có lá me bay, có có bướm lượn và đám chim chiền chiện luyện trên cánh đồng nắng gió. Tôi biết được một chút riêng tư về số phận hẩm hiu của Khang. Cha mẹ chết không rõ nguyên do, chỉ còn có sư ông là người bác ruột độc nhất trong họ đành theo về chùa nương tựa."

Tôi giựt mình nhưng còn mơ hồ rạp mình cúi lạy theo những người xung quanh khi họ đồng loạt cúi xuống. Tiếng chuông nữa vang lên tôi ra khỏi cơn bàng hoàng, trong trí nhận biết gần chấm dứt bài kinh "Trì niệm chú Ðại Bi". Lòng thầm nghĩ, còn phải cúi lạy nhiều lần khi đọc tên các vị Phật. Bắt đầu bài kinh khác, quỳ thẳng người, hai con mắt tôi lại dán cứng phía sau lưng vị sư mới, ý tưởng cũng lại trở về vị trí cũ và lờ mờ hiện rõ khung cảnh trong óc dỡ dang khi nãy.

"Ngày tháng bình thản trôi qua, chúng tôi cũng bình thản lớn lên lần theo ngày tháng. Nỗi e ấp của người con gái dậy thì và sự e dè của người con trai cùng trang lứa đã bắt đầu thấy rõ. Một lần tôi theo ngoại qua chùa lễ phật, Sư ông vuốt tóc tôi, nói với bà ngoại "Con Trang và thằng Khang mới ngày nào tôi đưa đi học còn nhỏ nhí, chạy giỡn với nhau, mà bây giờ hai đứa trông lớn hết rồi". Chúng tôi đã lên Trung Học và lại học cùng một lớp. Thường tôi hay chạy sang chùa nhờ Khang giải giùm một bài toán khó hay chỉ cho tôi biết thêm một vài tác giả để bình giảng một đề tài thầy mới đưa ra. Một hôm, tôi mượn quyển tập của Khang chép một đoạn bài còn thiếu. Vô tình lật ngược trang bìa sau phía trong, tôi thấy hai chữ "Khang Trang" viết chung trong dấu ngoặc kép nhiều hàng như vậy đóng khung giữa một trái tim lớn bằng nét vẽ của cây viết mực đỏ. Trong tôi vô cùng rung động, vô cùng bồi hồi, không phiền trách Khang, bởi chính tôi cũng đang có những cảm tình nồng đượm thiết tha dấu kín.

Chiều ngày sau tôi sang chùa trả lại tập cho Khang, cố gắng bình tỉnh cùng lúc đó Khang ngó thẳng vào mặt tôi như dò xét và bàn tay thoáng nét rung động khi cầm quyển vở. Khang rủ tôi ra vườn. Hai đứa bước chầm chậm bên nhau giữa những nắng gió lao xao reo vui dưới những bước chân ngập ngừng trên sỏi đá. Bỗng dưng Khang nắm tay tôi và kéo người tôi sát vào với Khang, cùng lúc đó thêm nụ hôn trên bờ tóc rối. Hơi nóng từ bàn tay và da thịt của hai phái dính sát qua làn vải áo, hơi thở của Khang phả vào cổ, vào vai, xương sống tôi nổi lên một luồng buốt lạnh. Nỗi bí ẩn trong tận cùng vực thẳm của thâm tâm mà chính tôi muốn che dấu, từ lúc đó bị khám phá bởi tôi không có một chút phản đối nào. Tôi choáng váng trong cảm giác nhẹ nhàng, nửa chới với của kẻ mất thăng bằng không còn tự chủ, nửa sắp sửa lao mình vào không gian giữa chiều nắng còn vươn trên đọt cây, ngọn cỏ mà tưởng như cơn bão dữ sắp sửa hoành hành. Tôi mê man cùng Khang tay trong tay không cần biết nắng quanh mình sắp tắt.

Yên tĩnh của vườn cây, nghe trong tiếng gió thoang thoảng mơ hồ nhịp đập của đôi tim náo nức. Ði dựa bên Khang mà hồn tôi chập chờn như muốn lìa khỏi xác, trí não quay cuồng những hình ảnh cũ mới. Hai con mắt và cử chỉ Khang ngu ngơ ngày mới đến. Những tháng năm dài cùng đi học, cùng chơi đùa, cùng chia xẻ những nỗi muộn phiền, cùng những buổi tối dưới ngọn đèn dầu leo lét hai đứa thân thiết ngồi bên nhau làm bài vở. Tất cả những kỷ niệm đó là nền móng của một thứ thành lủy cứng chắc quyện thành một thứ nhựa thiên nhiên kết chặt giữa Khang và tôi như mười ngón tay ràng buộc.

Tiếng chuông chùa vọng lên từ trong lắng tĩnh hoàng hôn. Cành cây phất phơ quét nhẹ nhàng trên mái cao, âm vang mơ hồ như từng bước chân ấm áp của hai người đi vào bóng tối.

Tôi ngước mắt nhìn trời những vì sao nhấp nháy xa xa và ngôi sao Hôm đang hãnh diện tỏa ánh sáng chênh chếch trên ngọn cây sứ cạnh tượng Quan Âm giữa sân chùa, nhắc nhở tôi nhớ tới bài học và những công thức toán phiền phức cho ngày mai chưa làm xong. Hai đôi chân vòng tới hiên chùa, tôi hỏi:

- Mấy giờ rồi Khang.

Khang nhìn đồng hồ tay:

- Hơn tám giờ.

- Gần tới ngày thi, về nhà học bài nha Khang.

Tôi trở về nhà, Khang quay vào hậu liêu chùa. Chỉ một lần đó rồi thôi, hai đứa phải vùi mài sách vở cho kỳ thi Tú tài.

Hết chương trình Trung học, tôi phải lên Ðại Học. Mối tình đằm thắm thiết tha của chúng tôi chưa thể thành tựu được. Những ngày xa Khang tôi vô cùng buồn bã, một đôi tháng tôi trở về thăm Ngoại, nhưng thật sự là để gặp Khang. Cho đến một ngày tôi trở về lần nữa được biết Sư bác đưa Khang lên học ở một trường Ðại Học của một ngôi chùa lớn. Từ đó tôi không còn gặp Khang, đôi khi muốn tìm nhưng tình huống bắt buộc tôi dừng lại".

Bài kinh "Hồi Hướng" lôi tôi trở lại thực tại lần nữa. Tôi bắt đầu đọc và chăm chú hết sức mình theo bài kinh, không muốn suy nghĩ vẫn vơ, cố gắng xua đuổi những tạp niệm ra khỏi đầu óc. Tự dặn lòng, hãy để yên cho người tu hành, đừng khơi lại những gì đã qua, quên đi hết quá khứ. Nhìn thẳng lên đôi mắt phật Tổ, khấn nguyện xin ngài hộ độ cho những vọng niệm trong tôi tan biến, cho lòng bình an thiền định và quên hết những điều xảy ra ở đây hay bên kia bến bờ Ðại Dương, trong quá khứ trong sạch của tuổi mới biết yêu, hay trong cái tự hào của một con người chưa làm điều vẩn đục dù trong tâm hồn hay xác thể.

Ðưa bà nội ra xe, tôi ung dung lái, thanh thản như khi đưa tay ký lên tờ giấy trả tự do cho người chồng muốn đi hoang. Gió mát lạnh nhưng tôi không quay cửa kiếng lên, chỉ mỉm cười thưởng thức cảm giác nhẹ nhàng đã lóe lên trong lòng.

1850

Bài đăng phổ biến